Vũ Thất
Bảo Bình 1
Những khám phá bí ẩn về cột đá chùa Dạm ở Bắc Ninh
Những khám phá bí ẩn về cột đá chùa Dạm ở Bắc Ninh
Chùa Dạm – Cảnh Long Đồng Khánh
Chùa Dạm, tên chữ là Cảnh Long Đồng Khánh tự hay Đại Lãm Tự là ngôi chùa cổ ngàn năm tuổi nằm ven sườn phía nam núi Đại Lãm (xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh). Dù trải bao biến cố thời gian, chùa vẫn giữ được những vết tích gợi nhắc về một công trình kiến trúc từng được mệnh danh là đại danh lam thắng cảnh thời nhà Lý. Bất cứ ai lần đầu đến thăm chùa Dạm chắc hẳn đều không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh sắc tuyệt đẹp ở đây. Từ chân núi dẫn lên chùa là con đường sỏi đá quanh co, một bên cây cối xanh tốt um tùm, một bên đồng rộng, sông nước mênh mông hút tầm mắt. Không gian tĩnh mịch tách biệt với những xô bồ, náo nhiệt của cuộc sống. Ngôi chùa ở lưng chừng núi giữa thiên nhiên, đất trời khoáng đạt. Dù chỉ còn lại nền móng xưa cũ nhưng mỗi bậc đá rêu phong, mỗi nét chạm trổ hoa văn tinh tế đều như mở ra những giả thiết kiến trúc và cả những huyền tích gắn liền với đất và người nơi đây.
![]() |
Ngôi chùa nhỏ được người dân dựng trên nền thờ cũ |
![]() |
Giếng cổ phía sau chùa gắn liền với tích bà Tấm |
Truyền thuyết về sự tích có cột đá chùa Dạm
Theo truyền thuyết, người phương Bắc đã trấn yểm linh hồn Cao Biền ở quả núi Dạm. Vì muốn xâm lược nước ta, nên tìm cách khiến Cao Biền sống dậy. Họ đã mang 100 nén hương đến nhờ một người dân trong vùng đốt ở núi này. Khi đốt xong nén hương cuối cùng, Cao Biền sẽ sống dậy và nhà Lý sẽ sụp đổ, nước Nam sẽ về tay phương Bắc. Biết ý đồ xấu của họ, nên người này đã đốt luôn 100 nén cùng lúc, khiến Cao Biền không sống lại được. Cột đá được dựng lên vừa để tưởng nhớ người dân anh dũng kia, vừa là biểu tượng của sự vững bền.Chẳng thế mà, như lời hòa thượng Thích Thanh Dũng (trụ trì chùa Hàm Long kiêm chùa Dạm), dù trải ngàn năm, đổi thay thế sự, chùa bị nhiều đời phá hoại, nhưng cột đá vẫn vẹn nguyên. Các cụ truyền rằng, hễ ai động đến cột đá, lập tức thần sét sẽ giáng đòn chí mạng vào đầu. Chẳng ai dám động vào cái cột đá kỳ bí ấy.
![]() |
Khám phá bí ẩn cột đá nghìn tuổi được phát hiện ở chùa Dạm
Một tuyệt tác điêu khắc, được tạc vào năm Quảng Hữu thứ II (1086), cột đá chùa Dạm có tên chữ Lãm Sơn Tự là công trình lưu truyền cho hậu thế một giá trị nghệ thuật đặc sắc của điêu khắc thời Lý – một nền điêu khắc đặc sắc bậc nhất trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam. Sừng sững cùng thời gian gần 1000 năm qua, vẫn còn đó những bí ẩn kỳ diệu chưa được làm sáng tỏ của công trình điêu khắc độc nhất vô nhị này.
Men men những lối mòn ven theo triền đá núi đá kỳ vĩ, phải đến hàng trăm bậc từ những phiến đá rêu phủ chúng tôi tìm lên chùa để chiêm ngưỡng công trình tuyệt kỹ của cha ông. Được chiêm bái cây cột đá trứ danh bao năm nay vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, tôi cảm nhận được sự bí ẩn và linh thiêng của nó. Cột đá Lãm Sơn Tự đứng vững chãi phía ngoài khuôn viên nhà chùa, một mặt tựa lưng vào núi Đại Lãm, một mặt hướng về phía Đông bao quát được cả một khoảng không rộng đến hàng nghìn mét.
Nhìn tổng thể cột đá gồm phần trên khu đất tròn dựng một cột đá lớn, không kể phần chôn sâu chìm, cột đá cao khoảng 5m. Cấu trúc cột gồm 2 thớt khối, tượng hình vuông tròn trời đất. Khối gốc như hộp vuông tiết diện, cạnh 1, 4 m và 1, 6 m. Khối ngọn trụ trì, đường kính khoảng 1, 3 m. Độc đáo ở chỗ dưới phần trụ tròn này chạm nổi đôi rồng thời Lỏ, đầu vươn cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng, thân quấn quanh cột, đuôi ngoắc vào nhau. Đúng dạng rồng rắn thời Lý với mào bốc lửa, bờm thành búi như cờ đuôi nheo bay lướt, thân tròn lẳn uốn khúc thoăn thoắt có hình chữ S, chân chim năm móng.
Điều đáng khâm phục cái tài khắc tạc ở chỗ đôi rồng uốn lượn nổi bật giữa các hoa văn phụ hình hoa dây móc được chạm trổ một cách tinh xảo. Vì thế mà từ bao đời nay, Lãm Sơn Tự mang trong mình chất hoành tráng, nhìn xa đã bị thu hút, nhìn gần càng đẹp. Xét về niên đại, nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng cột đá chùa Dạm được tạc từ thế kỷ XI. Sự bí ẩn, kỳ lạ của cột đá này trước hết ở chỗ có rất nhiều giả thuyết cho rằng đây là một cột cờ. Ở phần trên của cột đá, có những hốc được đục vuông vắn, có giả thuyết cho đó là những mố để dựng một ngôi chùa một cột xưa kia (?!) Giả thuyết được nhiều nhà khảo cổ học, nghiên cứu văn hóa lịch sử uy tín đồng tình, thì cột đá chùa Dạm là chiếc Linga (biểu tượng của dương vật). Đó cũng là một biểu tượng trong tín ngưỡng phồn thực dân gian có nguồn gốc từ văn hóa Chăm Pa.
Tìm lại tài liệu nghiên cứu về cột đá này mà các nhà khảo cổ – lịch sử từng tới đây nghiên cứu và để lại. Trong quá khứ đã từng có cuộc tranh luận giữa ông Nguyễn Hùng Vĩ và PGS Chu Quang Trứ. Bài viết “Quan sát cột đá chùa một cột ở núi Dạm” của Nguyễn Hùng Vĩ, đăng trên tạp chí Văn Hóa Nghệ Thuật số 10/ 1999, đã đưa ra những lập luận để chứng minh cột đá chùa Dạm có chức năng làm cột đỡ cho một ngôi chùa một cột. Liền sau đó, trong tạp chí VHNT số 11/1999, PGS Chu Quang Trứ đã có bài phản bác lại quan điểm trên. Để hiểu đầy đủ hơn về cột đá chùa Dạm, nghiêng về ủng hộ luận thuyết Linga của các nhà khoa học chuyên môn vì thế mà lâu nay nó vẫn được mặc nhiên công nhận.
Một giả thuyết khác, phần đỉnh cột đá cũng có thể là tòa sen, chứ không nghiêng về giả thiết ngôi chùa trên đỉnh cột. Bởi hình tượng rồng đội tòa sen là mô típ rất phổ biến ở trong các ngôi chùa Việt.
Những di vật thời Lý, như ở pho tượng A Di Đà của chùa Phật Tích, ở đế bệ hình bát giác có trang trí những hình rồng, những hình rồng này đều nằm ở phía dưới tòa sen, là nơi Phật ngồi. Ở Bảo tàng Lịch sử quốc gia còn lưu giữ cột đá chạm búp sen rồng cuốn, cũng có niên đại thời Lý. Vì vậy hình rồng được chạm khắc ở dưới tòa sen, bàn thờ Phật vốn khá phổ biến vào thời nhà Lý.
Trên cột còn có rãnh dầm xuyên tâm từ mặt Nam sang mặt Bắc, đó là cái gì, nếu không phải là mộng kỹ thuật. Theo PGS Chu Quang Trứ, những lỗ này dùng để cắm khánh, cành phan. Mà người dân Đại Việt xưa chẳng đời nào lại cắm cành phan và khánh trên chiếc Linga như vậy, chính những chiếc lỗ này đã củng cố thêm giả thuyết cột đá hoa sen.
Tất cả sẽ không bị đưa vào màn bí ẩn nếu cột đá còn nguyên bản. Nhưng theo truyền khẩu của nhân dân địa phương thì cây cột đã bị sét đánh gãy từ thuở xưa, vào khoảng thế kỷ XVI, chắc phần trên cùng còn khá nặng thì mới bị sét đánh gãy như vậy.
Ông Phạm Mạnh Tập, Trưởng ban quản lý ngôi chùa Dạm đưa cho tôi xem rất nhiều giấy tờ, tài liệu của các giả thuyết tìm tên cho cột đá mà ông sưu tầm được. Rồi ông lắc đầu: “ Mấu chốt ở chỗ phần bị đánh gãy của cột đá này bị thất lạc đi đâu, không ai biết để đến giờ mọi thứ vẫn chỉ là giả thuyết”.
Người dân bản địa cũng có cách giải thích riêng cho mình. Trưa. Chúng tôi ở lại chùa. Bên mâm cơm chay đạm bạc, cụ Phạm Thị Tẹo, một trong những người tình nguyện lên núi trông coi chùa kể: “ Dân gian truyền lại rằng cột đá kia là tấm bia để tưởng nhớ đến tinh thần giữ nước của một người dân Việt”. Năm 1947, thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến, dân làng Nam Sơn, Quế Võ Bắc Ninh đã phải đốt chùa không cho giặc chiếm. Cụ Tẹo nhớ lại: “ Ngôi chùa cháy mấy ngày mấy đêm mới hết. Trong đêm rực cháy thì một trận phong ba nổi lên cuốn bụi khói mù mịt, dân làng kinh hãi bảo nhau sau này nhất định phải dựng trả lại chùa đúng với nguyên bản. Nếu như xưa kia chùa có 99 gian thì hiện tại ngôi chùa chỉ là phế tích, duy chỉ có cột đá vẫn nằm đó”. Cụ Tẹo bật mí: “Cột đá thiêng không phải là thứ đá lấy từ chất liệu đá của ở núi Lãm này. Vùng này không có thứ đá đặc biệt đó. Không chỉ có cột đá mà ngay cả nền móng của 99 gian chùa cũng được kê bằng đá không phải ở đây”. Ở trên một ngọn núi cao, hiểm trở, người đi bộ còn vất vả thế thì việc làm sao các bậc tiền nhân đưa đá được lên núi cũng là điều bí ẩn đến kỳ diệu.
Ông Phạm Mạnh Tập cho biết loại đá để tạc Lãm Sơn Tự người ta chỉ tìm thấy ở Đông Triều, Thiên Thai, Phả Lại. Ngày xưa, đi lại khó khăn, giao thông chưa phát triển, từ Đông Triều về đến Nam Sơn xa xôi phải đến hàng trăm km. Ông Tập nói: “Rất có thể đá được đưa bằng đường sông Hồng về. Để đưa đá về được đến Nam Sơn, người ta đã phải đào cái ngòi Con Tên, dẫn vào đến tận chân núi. Những một khối đá to đến như thế, đưa lên núi bằng cách nào thì không ai biết cả”.
Khoe với tôi rằng Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam vừa mới xác lập kỷ lục chùa Dạm có cột đá chạm rồng lớn nhất Việt Nam nhưng ông Phạm Mạnh Tập không khỏi băn khoăn: “ Người dân sở tại luôn ước nguyện một ngày nào đó phục dựng lại nguyên vẹn kiến trúc cho chùa Dạm, nhưng khát vọng này xem ra còn rất xa vời”.
Cột đá chùa Dạm từng được nhiều nhà nghiên cứu xưng tụng, coi là báu vật hàng đầu của quốc gia vẫn ngày ngày nằm đó trong quên lãng thờ ơ của con người đương đại.
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
|
||
Vào đầu năm 2011, chúng tôi được người quen ở Hà Nội gửi cho bài “Tiếp tục quan sát cột đá chùa Dạm” của Nguyễn Hùng Vĩ (NHV), ghi ngày viết 29-5-2009, nhân đó cũng được biết thêm là ông đã bàn về vấn đề này qua 4 bài viết từ năm 2000. Với tình hình phổ biến kiến thức eo hẹp từng vùng, từng khu vực chuyên môn cho nên thông tin này đến với tôi khá muộn.


Tạ Chí Đại Trường
Cột đá chùa Dạm không phải biểu tượng linga.
Chủ kiến cho rằng cột đá chùa Dạm là một linga được đưa ra sớm nhất là vào năm 1977. Kể từ đó đến nay, trong vòng hơn 30 năm, các nhà nghiên cứu lịch sử mỹ thuật cổ Việt Nam đã bày tỏ sự đồng tình và chứng minh cho giả thuyết này. Có thể kể đến tên tuổi hai nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ Chu Quang Trứ và Trần Lâm Biền với một số bài viết từ những năm 1980- 1990 trên các tạp chí chuyên ngành (in lại trong các chuyên luận của hai tác giả), sau đó giả thuyết này ảnh hưởng đến Phan Cẩm Thượng (1997)và một số nhà sử học như Hà Văn Tấn (1996, 2010), Tạ Chí Đại Trường (2006), … Đáng quan ngại hơn cả, quan niệm này đã đi vào giáo trình giảng dạy đại học qua công trình của tác giả Trần Ngọc Thêm (1992- nay).
Như trên đã viết, những người đứng đầu của chủ thuyết này là hai nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ và Trần Lâm Biền. Vì thế, chúng tôi chủ yếu trình bày lại giả thuyết của hai tác giả. Những người ủng hộ nhưng không đưa cứ liệu bổ sung sẽ không thuật lại ở đây.
Pgs Chu Quang Trứ, trong chuyên luận Sáng giá chùa xưa, đã viết: “cột biểu vươn cao giữa các khu đất tròn bè (TTD nhm) đã gợi hình cặp Linga- Yoni với triết lý âm- dương theo tín ngưỡng phồn thực, được hòa vào tư tưởng Phật giáo… Đằng sau cột biểu, cuối cấp nền này có một giếng nước dân địa phương kể vào ngày hội mồng tám tháng chín, bóng cột dài dần và xoay đến giờ thiêng sẽ chạm vào miệng giếng, truyền sinh lực vũ trụ cho cuộc sống vĩnh hằng mà mọi người luôn mong đợi”. Trong một bài viết trước đó ông cũng viết: “mặc dù đã được Phật hóa như vậy, cột đá vẫn còn lưu ảnh các tư tưởng cổ truyền xưa: ở nhiều nơi vẫn nhận đó là hình lanh-ga và kèm theo đó là quan niệm vũ trụ: trời tròn đất vuông, của các cư dân nông nghiệp”.
Giả thuyết này đã nhanh chóng nhận được sự đồng thuận của nhiều nhà khoa học, trong đó đáng kể nhất là Pgs Trần Lâm Biền. Ông cho rằng “hiện tượng Phật hóa linga” với các kiểu “Bụt đực, Bụt cái” trong ngôi chùa của người Mường, cũng như các “linga hoàng gia tượng trưng cho uy quyền tuyệt đối của vua” tại Campuchia là những cứ liệu bổ sung quan trọng để “suy cho cùng, cột chùa Giạm là một hình ảnh của linga, một hiện vật cụ thể của sự trở về cội nguồn Đông Nam Á của dân tộc Việt, một minh chứng về ý thức giải Hoa dưới triều Lý (ở mặt tư tưởng). Cột chùa Giạm còn là một linga lớn nhất trên toàn cõi nước Việt Nam hiện nay”.
![]() |
Mukhalinga của Thái Lan |
![]() |
Các lỗ ngàm (số 4,5,6) và rãnh dầm trên đỉnh |
Cột đá chùa Dạm- phế tích và những số liệu
Một thao tác cơ bản của nghiên cứu khảo cổ học và mỹ thuật cổ đó là khảo tả hiện vật. Rất tiếc là những người đưa ra chủ thuyết linga lại chưa từng công bố chính thức một số liệu cụ thể nào. Họ mặc nhận cột đá đó là một hiện vật từ đó tiến hành giải mã ý nghĩa biểu tượng mà không nghĩ đến việc phục chế lại hình ảnh vốn có của nó. Phải đến những ý kiến trái chiều về “thuyết linga” của Ngô Văn Doanh và Nguyễn Hùng Vỹ, các con số mới lần lượt được đưa ra, những phản biện và kết luận mới bắt đầu rõ ràng hơn. Kết luận đầu tiên về khảo tả hiện vật: các tác giả cho rằng, cột đá chùa Dạm chỉ là một dạng phế tích còn sót lại của công trình kiến trúc thuộc loại một cột vào đời Lý. Ý kiến này trùng khớp với những nhận định của thế hệ Pháp học lão thành là Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Du Chi, Nguyễn Đỗ Cung,… Có hai lý do để xác định như vậy.
Điểm thứ nhất có thể khẳng định cột đá chùa Dạm là một phế tích, ấy là phần chân của cột đã bị tàn khuyết. Các nhà nghiên cứu theo thuyết “linga” dường như cũng không để ý đến phần chân đá này. Điểm được coi là cứ liệu duy nhất ấy là hình dáng “khu đất tròn bè” theo như miêu tả của Chu Quang Trứ.
Tuy nhiên, chúng tôi xin được khảo tả lại như sau. Phần chân đế còn lại của cột đá chùa Dạm là ba tầng đá xếp cao gần 1m, đường kính 4,5m. Các tầng đá này được tạo thành từ các khối đá lớn tạc hình sóng nước xen kẽ với đồ hình núi non. Đối chiếu với phần chân đá xếp tương tự của bia Lý đối xứng qua trục thần đạo của di tích, cho thấy chỗ nhiều nhất còn lại khoảng 6 tầng. Theo tính toán của Nguyễn Hùng Vỹ, cả hai chân nền này ban đầu sẽ có bảy tầng đá xếp. Riêng phần chân ở cột đá chùa Dạm, bảy tầng sóng nước- núi non bằng đá sẽ xếp kín đến hết phần bạt vuông của thân cột (đây cũng là chi tiết bị nhiều người bỏ qua). Phần vuông của cột có tiết diện 1,55m x 1,65m, tạc thô tháp, điều này cho phép khẳng định phải có phần đá điêu khắc bọc bên ngoài. Theo ý kiến của chúng tôi, các tầng đá này có hai chức năng. Về mặt mỹ thuật, bảy tầng sóng nước- núi non sẽ “ăn ý” với đồ hình song long hiến châu ở trên. Về mặt kiến trúc, bảy tầng sóng nước này sẽ là kết cấu dùng để chèn kè không những chân cột mà còn cả thân cột nữa. Bảy tầng đá bao quanh một trụ đá ở giữa đó là một hằng số/ đặc trưng kiến trúc thời Lý giống như miêu tả của bia Đại Việt quốc Lí gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (1121): Trong dựng một cột, ngoài đặt bảy tầng. Rồng uốn cong đỡ lấy tòa sen vàng, (中標一幹,外設七層。虯弓出而捧金蓮…)
Thứ hai, đỉnh cột tuy bị vỡ, nhưng bằng mắt thường, có thể thấy hệ thống các lỗ ngàm để đóng xích đông chịu lực cho một tòa sen và điện Phật trên đó giống như Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu. Theo bố trí 6 lỗ ngàm hình tam giác (cạnh đáy đều nằm trên một mặt phẳng song song với mặt đất), cột đá chùa Dạm được chia đều thành sáu cung bằng nhau tạo thành một dàn dầm chống cân đối. Các lỗ có sự nông sâu khác nhau là do tình trạng bào mòn, thậm trí sứt vỡ của cột phế tích. Chúng tôi tạm thời quy chuẩn đều (làm tròn theo các số liệu lớn nhất của Nguyễn Hùng Vỹ) để hình dung về các lỗ ngàm này (xem bảng dưới). Ngoài ra, đỉnh cột còn có: (a). 8 lỗ nhỏ hình chữ nhật có kích thước 5cm x 6cm x 8cm, sự phân bố không thật đều đặn, khiến tác giả đi đến giả thuyết rằng, đây là các lỗ ngàm được làm về sau trong quá trình tu bổ, người ta đã làm thêm để chống các phía bị nghiêng lệch, hoặc dùng để cắm cờ phướn (b). Lỗ ngàm con sơn hình chữ nhật, rộng 10cm, sâu 4cm. (c). Rãnh dầm ngang chịu lực, nằm chính giữa và chia đôi đỉnh cột, vuông góc với mặt đất, hướng Bắc Nam rộng 23cm, dài 7 cm, gờ bên 3 cm dùng để đặt đòn nóc. Có thể trình bày như bảng sau.
Từ những số liệu như trên, chúng tôi có thể đi đến một nhận định rằng cột đá chùa Dạm không phải là “hình sinh thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lý”, bởi lẽ chưa từng có một cái linga nào ở Champa, Phù Nam,… mà lại được tạc ngàm với hệ thống lỗ ở phía trên cả. Trong khi người ta cố gắng đi tìm những chứng cứ Ấn Độ, Champa (hay chứng cứ có nguồn gốc Nam Á) để “giải Hoa” thì họ cũng đã vô tình “giải Việt” mà không hay biết.
Có thể nói, những nghiên cứu trên là rất có ý nghĩa cho khoa lịch sử mỹ thuật. Tuy nhiên, kiến trúc trên có những hàm nghĩa triết học và ý tưởng nghệ thuật ra sao thì còn là một vấn đề cần được thảo luận tiếp sau đây.
![]() |
Bản kích thước |
![]() |
Núi tu di và các tầng sóng tầng núi |
Sau những bài viết khảo tả công phu, tác giả Nguyễn Hùng Vỹ tiếp tục đề xuất cách lý giải biểu tượng của kiến trúc cột đá chùa Dạm. Năm 2011, ông cho rằng kiến trúc một cột chùa Dạm có khả năng là một “nhiên đăng đài” giống như Nhiên đăng tháp chùa Đồng Tử đời Đường và đài đèn Quảng Chiếu đời Lý. Theo dõi những nghiên cứu trên, Tạ Chí Đại Trường đã “phải rút lại ý kiến xác quyết về hình tượng một mukhalinga, như đã nói ở nhiều bài viết” và cho rằng đó là “nhận định quá đà, khó được chấp nhận” . Cho đến nay, đây là ý kiến phản hồi duy nhất của những người theo thuyết linga. Năm 2012, Trần Thị Kim Anh đã nghi ngờ thuyết “nhiên đăng” của Nguyễn Hùng Vỹ mà cho rằng cột đá chùa Dạm là một kinh tràng Phật giáo]. Ngay sau đó, dựa trên kiến giải mới về kiến trúc một cột chùa Diên Hựu, Trần Thị Kim Anh, Nguyễn Hùng Vỹ và một số nhà nghiên cứu khác đã từ bỏ các giả thuyết cũ để thống nhất cho rằng, đây là một Liên Hoa Đài, tương tự như ở chùa Diên Hựu Hà Nội.
Đến đây, những phương trình có thể được đặt ra. Cột đá chùa Dạm là một phế tích còn lại của Liên Hoa Đài chùa Dạm. Liên Hoa Đài chùa Dạm là đồng dạng về loại hình với Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu. Và như thế, chúng sẽ có cùng chung một ý nghĩa biểu tượng.
Theo chúng tôi, kiến trúc Liên Hoa Đài thời Lý, đặt trong bối cảnh văn hóa và thế giới quan của Phật giáo, là một kiểu kiến trúc mô phỏng núi Tu Di- ngọn núi trung tâm của vũ trụ. Ngọn núi này cao tám vạn do tuần, đỉnh mở rộng ra tám vạn do tuần trông như một bông sen khổng lồ, đó là một bông sen vũ trụ. Trên đỉnh ngọn núi hoa sen đó là cung trời Đao Lỵ- nơi trú xứ của Phật Thích Ca. Bao quanh ngọn núi Tu Di là tám vòng núi và tám vòng biển (gọi gộp là cửu sơn bát hải). Đúng như Nguyễn Du Chi đã viết các chùa đời Lý thường có các tháp tượng trưng cho núi thiêng Tu Di, bao quanh là những công trình bố trí theo đồ án hình vuông tượng trưng cho bốn đại dương trong thế giới.
Trở lại với việc khảo tả Liên Hoa Đài chùa Dạm, chúng ta có thể thấy rõ sự tương ứng giữa hình tượng kiến trúc- điêu khắc với thế giới quan Phật giáo qua kinh sách. Nền dưới cùng là các tầng đá xếp có tạc sóng nước, núi non- đó là biểu tượng của các tầng biển và các tầng núi bao quanh núi Tu Di. Trên lớp sóng là đôi rồng theo mô típ lưỡng long hiến châu, một biểu tượng cho sự quy y Phật pháp. Phía trên nữa là hệ thống các xích đông đỡ một tòa sen- tượng trưng cho đỉnh núi Tu Di. Trên tòa sen là một điện đỏ tía có đặt tôn tượng Thích Ca dát vàng như miêu tả trong văn bia chùa Đọi.
Đồ hình thiết kế của Liên Hoa Đài chùa Diên Hựu cũng như Liên Hoa Đài chùa Dạm có thể tìm thấy qua hệ thống tranh khắc Phật giáo tại Việt Nam. Hình trên là bức đồ họa mang tên “Tô Di Lô Sơn Vương”, miêu tả núi Tu Di ở giữa, có các vòng núi non và biển cả bao quanh. Đây là bức đồ họa được dùng để minh họa trong sách Pháp giới an lập đồ- một cuốn sách kinh điển của Phật giáo dùng để miêu tả về sự cấu thành vũ trụ, đây là một trong những sách quan trọng hàng đầu về thế giới quan Phật giáo. Nhìn vào tác phẩm này, chúng ta thấy thủ pháp ở đây là kết hợp cả hai cách nhìn cao viễn và phi điểu trong hội họa truyền thống. Để tưởng tượng rõ hơn, chúng ta có thể thấy một mô hình thu nhỏ được làm bằng đồng, đó là mô hình núi Tu Di được đặt tại Ung Hòa Cung (Trung Quốc), tuy nhiên mô hình này làm vào đời Thanh, muộn hơn Liên Hoa Đài ở chùa Dạm rất nhiều.
Núi Tu Di bản thân nó đã mang hình một bông sen, nếu nhìn trên bình đồ của cửu sơn bát hải, chúng ta có thể thấy đó là một đồ hình hoa sen trong hoa sen. Hoa sen là thế giới, và thế giới nở ra trong hoa sen. Cho nên đồ hình núi Tu Di- hoa sen vũ trụ đó được nhà Phật định danh bằng khái niệm “Liên Hoa Tạng Thế giới”. Mỗi một thế giới là một đóa hoa sen. Ba nghìn đóa sen là ba nghìn thế giới. Cho nên, vua Trần Nhân Tông trong một lần du lãm đến chùa đã miêu tả:
Mười hai lâu đài khoe tranh vẽ,
Ba ngàn thế giới lọt mắt thơ
(十二樓臺開畫軸,
三千世界入詩眸)
Đằng sau “con mắt thơ” ước lệ đó hẳn cũng phải có gì đó là thật chứ?
Sưu tầm.