Vũ Thất

Bảo Bình 1

Category Archives: Thời Sự

Nguyễn Tất Thành

Dù sống cùng thời nhưng khác nơi nên tôi không gặp Nguyễn Tất Thành lần nào ráo. Giao lưu, tương tác, chit chat …  (qua không gian mạng) cũng không luôn. Bởi vậy, tôi chỉ đoán già, đoán non rằng con đường học vấn của ổng không dài và dường như cũng không được suôn sẻ gì cho lắm.

Trăm năm trong cõi người ta

Cái gì không biết thì tra gu gồ!

Tôi rà rà chút xíu thì thấy báo Quân Đội Nhân Dân Online có loạt bài: “Thời Trai Trẻ Tìm Đường Cứu Nước Của Bác Hồ” với những đoạn sau:

“Năm 1909, Nguyễn Tất Thành theo cha, lúc đó là Phó bảng vào huyện Bình Khê thuộc tỉnh Bình Định nhậm chức tri huyện. Sau đó Người được cha gửi vào Quy Nhơn học tiếng Pháp. Những tưởng việc học hành sẽ thuận lợi nhưng chẳng bao lâu, tháng 1 năm 1910, cha Người bị triều đình bãi chức và triệu hồi về Huế. Việc học tập của Nguyễn Tất Thành nguy cơ dang dở…

Cuối năm Canh Tuất (1910), Nguyễn Tất Thành rời Trường Dục Thanh về Sài Gòn tiếp tục con đường đã định… Năm 1960, tập sách Bác Hồ do nhiều tác giả viết in tại Hà Nội đã được Bác Hồ xem. Khi đọc, Bác nói với đồng chí thư ký: Bác không có ý định dừng lại Phan Thiết song đến đó thì tiền lộ phí đã cạn mới quyết định ở lại tìm việc làm để có tiền đi tiếp cuộc hành trình …

Đến Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành xin vào học một trường kỹ thuật do Pháp quản lý, dạy về hàng hải. Sau này, đồng chí Hà Huy Giáp kể lại, có lần Bác nói: ‘Bác đâu có ý định học thợ, nhưng trong lúc lang thang để tìm cách sang phương Tây, mà có nơi cho mình học, có cái ăn là mình vô thôi’.”

Cũng với cách suy nghĩ tương tự (“có cái ăn là mình vô thôi”) năm 1911, Nguyễn Tất Thành nộp đơn xin “vô” Trường Thuộc Địa nhưng không lọt. Về sự kiện này, trong một cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí Hợp Lưu (số phát hành vào tháng 11 năm 2020), TS Vũ Ngự Chiêu cho biết:

“Đầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Đèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.v…

Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này … Trong biên khảo tam ngữ ‘Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành’ (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng v.v…). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Địa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Đại Học Phương Đông của Liên Xô – Nga 12 năm sau”.

Tập tài liệu mỏng, viết bằng ba thứ tiếng “Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành” – Another School for Young Nguyễn Tất Thành – Une autre école pour le jeune Nguyễn Tất Thành) của Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh đã đặt ra một câu hỏi hơi nhạy cảm: “Hồ Chí Minh ra đi cứu nước hay kiếm cơm?

Theo tôi thì cả hai và không có cái nào sai cả. Có thực mới vực được đạo chứ. Hơn nữa, cứu cánh (vẫn) biện minh cho phương tiện cơ mà. Nguyễn Tất Thành học ở Paris hay Moscow đều ça va tuốt.

Tôi chỉ hơi có chút lăn tăn không hiểu là vì do ảnh hưởng nền giáo dục Đại Học Phương Đông của Liên Xô, hay vì do con đường học vấn (không được êm xuôi lắm) của chính mình mà kể từ khi Nguyễn Tất Thành lãnh đạo thành công cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam thì xẩy ra một hiện tượng hơi bị bất thường. Nhà tù ở đất nước này bỗng mọc lên khắp nơi còn nhà trường thì thưa thớt hẳn.

Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 – 1976) đã có người ta thán: “Trại lính, trại tù, người đi không ngớt/ Người về thưa thớt dăm ba”. (Nguyễn Chí Thiện – 1965).

Qua đến thời Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì đúng là giai đoạn hoàng kim của nhà tù. Đỉnh điểm có thể lấy ngày 4 tháng 10 năm 2019 làm dấu mốc. Ngày hôm đó, báo Công An Đà Nẵng hớn hở loan tin: “Khánh thành nhà tạm giữ của Công An Quận Hải Châu với tổng mức đầu tư là hơn 9,8 tỷ đồng trên thửa đất có diện tích 2.064 m2”.

Trời! Bộ tính bắt nhốt hết cả huyện hay sao mà làm nhà tạm giam cấp quận “bao la” dữ vậy, mấy cha?

Cổ kim – có lẽ – không có xứ sở nào tổ chức lễ khánh thành nhà tù như thế cả, và cũng không nơi đâu mà thiên hạ lại đổ xô đến nơi để xây trường tấp nập như ở Việt Nam:

– Nhật Bản đã viện trợ xây dựng 158 trường học tại Việt Nam

– Người Úc sang xây trường cho học sinh vùng lũ Quảng Bình

– Việt Nam và Vương quốc Anh hợp tác thúc đẩy giáo dục đại học

– Hàn Quốc hỗ trợ Việt Nam xây dựng đại học

– Hàn Quốc giúp VN xây dựng trường tiểu học

– Pháp cam kết giúp Việt Nam xây dựng trường đại học đẳng cấp quốc tế

– Cựu binh Mỹ góp sức xây trường ở Việt Nam

– Lính công binh Mỹ giúp Việt Nam xây trường học

Mọi công trình xây cất, giúp đỡ, viện trợ đều được chấp nhận với không ít e dè, và rất nhiều nghi ngại – theo như tường thuật của nhạc sỹ Tuấn Khanh:

“Tháng 8-2022, Lính thủy trên tàu bệnh viện Mercy của Hải quân Hoa Kỳ vừa khánh thành công trình phúc lợi là một trường học cho trẻ em ở Phú Yên. Toàn bộ chi phí được phía Mỹ tài trợ và sức lao động của lính thủy Mỹ nhằm ghi dấu cho một công trình mang tính hữu nghị và giáo dục.…

Nhưng những chuyện nói trên cũng không quan trọng bằng chuyện một chương trình giao lưu và hoàn toàn thiện nguyện từ một quốc gia khác, mà không hiểu sao phía truyền thông dư luận viên pro (ủng hộ) nhà nước tổ chức rất công phu những ngôn luận phủ nhận những hoạt động này, và nói rằng đây chỉ là những thứ mua chuộc để phá hoại Việt Nam, hay là giả dối để âm thầm tổ chức diễn biến hòa bình”.

Ôi! Tưởng gì chớ “những thứ mua chuộc để phá hoại Việt Nam”, “hay là giả dối để âm thầm tổ chức diễn biến hòa bình” thì nghi kỵ hay dè bỉu như thế là phải giá. Cái “giá” này chỉ hơi bị hớ, bị hố (hay bị lố) sau khi trang VnExpress đi tin: “Cậu bé gốc Việt quyên tiền xây trường ở Quảng Nam“.

Nam Harrison, 12 tuổi, kết hợp với một chuỗi cửa hàng bán sandwich quyên góp được 10.000 USD để xây một ngôi trường cho trẻ em ở tỉnh Quảng Nam… Nam được vợ chồng bà Maria Cina Harrison nhận nuôi từ năm một tuổi tại một trại trẻ ở ngoại thành Hà Nội và hiện sống tại khu Sherman Oaks, quận Los Angeles, bang California”.

“Hai năm trước, khi lần đầu trở về thăm Việt Nam, cậu bé được bố mẹ nuôi đưa đến thăm vùng núi ở tỉnh Quảng Nam, nơi vợ chồng Harrison đang kết hợp với tổ chức từ thiện Children of Vietnam để xây dựng một trường học. Sự nghèo khó ở đây đã khiến Nam bị sốc”.

Giản dị rứa thôi: “Sự nghèo khó ở đêy đã khiến Bé Nam bị sốc” rồi quyên góp, gây quỹ xây trường cho những đứa trẻ bất hạnh cùng tuổi với mình thôi, chớ em không hề có ý “mua chuộc Việt Nam” hay “âm thầm diễn biến hòa bình” (hay “bình hòa”) cái con bà gì sất.

Nỗi bất hạnh của lũ trẻ con không trường học (hay “trường không có nhà vệ sinh”) khiến tôi chạnh lòng nhớ đến tiếng thở dài (cố nén) của nhà báo Huy Đức: “Lịch sử không có chữ NẾU. Nhưng, đôi khi tôi vẫn cứ không cầm lòng được, suy nghĩ vẩn vơ, Việt Nam sẽ ra sao, nếu từ tháng 8-1945 vẫn là Chính phủ Trần Trọng Kim”.

Tôi lại “suy nghĩ vẩn vơ” theo kiểu khác, giản dị hơn: Nếu đơn xin vào học Trường Thuộc Địa của Nguyễn Tất Thành không bị trả về thì dân Việt, có thể, đã không vướng họa (họa cộng sản) từ bấy lâu nay!

Tưởng Năng Tiến (baotiengdan.com)

Di sản tội ác Việt cộng sau 30/4/75

Phát biểu của Đỗ Mười bí thư Trung ương Đảng Cộng sản khi chiếm miền Nam:

“Giải phóng miền Nam chúng ta có quyền tịch thu tài sản trưng dụng nhà cửa, hãng – xưởng, ruộng đất chúng nó , xe chúng nó ta đi, vợ chúng ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày đi kinh tế mới và nơi rừng sâu nước độc, chúng nó sẽ chết lần mòn”.   

Chính sách của Bắc Cộng đối với dân miền Nam là thế đấy. Đời đời không quên…

Đọc thêm: ĐỖ MƯỜI – DI SẢN TỘI ÁC

Cảm Tạ Miền Nam 

Phan Huy

Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói 

Với Miền Nam, miền đất mới thân quen

Tôi đã vào một xứ sở thần tiên 

Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền 

Cơm áo no lành, con người hạnh phúc. 

Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục 

Mở mắt to nhìn nửa nước anh em 

Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền 

Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống. 

Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động 

Đất nước con người dân chủ tự do 

Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô 

Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt…

Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối 

Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng 

Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên 

Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc. 

Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng 

Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu 

Mà trước đây tôi có biết gì đâu 

Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ 

Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ 

Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng …Dù không thành công cũng đã thành danh.

SÁM HỐI!

Trần Đức Thạch

Mái đầu tôi mỗi ngày càng nhanh bạc.
Với câu hỏi đất nước sẽ về đâu?
Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu
Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến.
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh.
Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình.
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác.

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc.
Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lênin.
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn.
Gieo thù hận trong lòng con cháu.

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu.
Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh.
Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành.
Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gặm nhấm.

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm.
Mất chính mình mang tội ác với tương lai.
Gần đất xa trời mới thấy được cái sai.
Không phải thơ mà những lời sám hối…

Xin ngàn lần triệu lần chịu tội.
Trước băn khoăn đất nước sẽ về đâu ???

nguồn: danchimviet.info

Vì sao Việt Nam là nước công an trị: Bộ Công an lớn đến cỡ nào?

Vì sao Việt Nam là nước công an trị: Bộ…

Tháng Tư Tướng chết theo thành

Đinh Quang Anh Thái | Tháng Tư Tướng ch…

Những bài hát hay về Tháng Tư Đen 1975

Những bài hát hay về Tháng Tư Đen 1975

Người Việt hải ngoại tưởng niệm 30/4

30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI

Trần Gia Phụng

Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.

Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.

1.- AI THẮNG AI?

Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa.

Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản.

Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc.

Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969.

Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ

Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3)

Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5)

Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.

Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.(7)

Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9)

Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc.

Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh.

2.- THỰC TẾ SAU 30-4

Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.)

Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa.

Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước.

Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11)

Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách.

Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.)

Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12)

Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991?

3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC

Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13)

So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14)

Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa.

Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống.

Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15)

Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16)

Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn.

4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trungcô lậpbắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam.

Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế…

Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18)

Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “”Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20)

Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay.

Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam.

Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc.

Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây:

· Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt.

· Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản.

· Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư…

· Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời.

Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt.

Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây.

Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21)

Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.” Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường.

TRẦN GIA PHỤNG (Toronto)

CHÚ THÍCH:

1. Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold L. Schester, The Palace File, Harper & Row, Publishers, New York, 1986, tr. 350. Nguyên văn: “North Vietnam will lose the war when it takes over Saigon.” [Sách The Palace File được các ông Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Ðàm chuyển dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Hồ sơ dinh Ðộc Lập, vơi một số những thay đổi do Nguyễn Tiến Hưng; Chu Xuân Viện nhuận sắc, Nxb. C & K Promotions, Inc., Los Angeles, không đề năm xuất bản. Trong sách nầy, câu nói của Moshe Dayan được trích dẫn ở trang 594.]

2. Nguyễn Ðình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 19.

3. Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334. Sách nầy được chọn là sách hay nhất về bang giao quốc tế của Câu lạc bộ Overseas Press, Hoa Kỳ.

4. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “that it might be worthwhile to sacrifice South Vietnam. Rather than squander more American lives and billions of dollars trying to prop up South Vietnam, with little chance of succeeding, why not accede to its failure in exchange for an opening to China, in order to weaken the real ennemy, the USSR?“.

5. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “So I came to the conclusion, and this may sound thoroughly cynical to you, that we would be better off not ro win this war. Particularly because the Chinese had made a breakthrough to us, and it was far more important to get the Chinese broken off from the Soviets and leaning to one side in our favor than for us to win in Vietnam.” [Bill Sullivam là một nhà ngoại giao kỳ cựu của Hoa Kỳ, đã từng làm đại sứ Hoa Kỳ tại Ai Lao, thứ trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, phụ tá và sát cánh cho đến phút chót với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam.]

6. John S. Bowman, tổng biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc từng ngày], Mallard Press, New York, 1989, tr. 190.

7. Roger Warner, sđd. tr. 333. Nguyên văn: “that losing the Vietnam War would be healthier for the U.S. than winning it. That losing was in the national interest. That it was a plus… It was a radical notion at the time, that by losing the war and by abandoning our Southeast Asian allies to their fate we would be doing the right thing.”

8. Lời của Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng Lao Ðộng Việt Nam. (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.)

9. Một ví dụ rõ rệt nhất trong lịch sử Việt Nam, là vào năm 1801, nhà Tây Sơn đem quân vây Quy Nhơn do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu của lực lượng Nguyễn Phúc Ánh trấn giữ. Theo kế hoạch của Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh chịu thua trận nầy, bỏ Quy Nhơn, tung quân ra đánh chiếm Phú Xuân, rồi ra Bắc hà dẹp nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước.

10. Ðạp đồng đài: tức xe đạp, đồng hồ, và radio transistor. (Lúc đó có nhiều từ ngữ rất lạ lùng về việc nầy: ví dụ đồng hồ không người lái tức đồng hồ tự động, đồng hồ có đèn tức đồng hồ dạ quang, đồng hồ có cửa sổ tức đồng hồ có khung ngày.)

11. Chuyện nầy do một cán bộ tên Phương, thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Hà Nội, được gởi vào Nam để nghiên cứu kế hoạch văn hóa, kể tại nhà của nhà văn Phan Du tại Ðà Nẵng vào thời điểm trên, người viết có mặt trong buổi nói chuyện nầy.

12. Một câu chuyện mà người viết nghe kể tại Sài Gòn trước năm 1980: Khi thủ tướng Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức), ông Erich Honecker (1912-1994), qua thăm Việt Nam, ghé Sài Gòn, lúc đó đã có tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Honecker đề nghị thuê các trí thức Sài Gòn sang làm việc tại Ðông Ðức, trả bằng ngoại tệ qua nhà cầm quyền cộng sản. Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM lúc đó là Võ Văn Kiệt đồng ý ngay vì nhà nước cộng sản rất cần ngoại tệ. Theo nhu cầu về chuyên viên của chính phủ Ðông Ðức, ông Võ Văn Kiệt lên danh sách các chuyên viên đã tốt nghiệp các trường đại học Ðông Âu, Liên Xô và Trung Cộng, nhưng Honecker lắc đầu từ chối, và tự mình đưa ra một danh sách nêu đích danh tên tuổi những chuyên viên khoa học kỹ thuật miền Nam đã tốt nghiệp tại miền Nam, cũng như ở Âu Mỹø còn ở lại miền Nam.

13. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 76-77.

14. Nguyễn Hiến Lê, Hồi kí tập III, Nxb. Văn Nghệ, California, 1988, tt. 17-18, 25.

15. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000. (tài liệu rút từ Internet, http//www.Imvntd.org/vndc0100/bai06.htm). Những chữ in đậm do người viết bài nầy muốn nhấn mạnh.

16. * Ngô Nhân Dụng, “Jane Fonda hối tiếc”, http://www.nguoi-viet.com/spcl/0622/binhluan.htm * Xin xem thêm về Jane Fonda: http://www.rjgeib.com/thoughts/fonda/fonda.html

17. Số người Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau năm 1975 chưa từng được cộng sản tiết lộ. Sau khi thăm dò nhiều người bị tù ở nhiều trại học tập tại các tỉnh khác nhau, người viết chỉ đưa ra con số ước chừng mà thôi. Nhiều người cho biết con số thật sự bị tù nhiều hơn, phải trên 1.000.000 người, vì chẳng những quân nhân, công chức, mà cán bộ xã ấp ở nông thôn, và cả phụ nữ nữa, cũng bị đi tù nhiều năm

18. Việt Mercury, San Jose, California, 9-3-2001, http://www.vietmercury.com/2001/week10/News/Story01.html)

(Nữ ca sĩ Phương Thanh, trả lời phỏng vấn của thông tín viên Ðức Hà)

19. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 303. Lời nói trên là của ông Vũ Ðình Huỳnh nói với con là nhà văn Vũ Thư Hiên năm 1986. Ông Vũ Ðình Huỳnh gia nhập đảng CS năm 1930, từng chứa chấp, nuôi ăn trong nhà tại Hà Nội những cán bộ cộng sản, kể cả ông Hồ Chí Minh. Ông Vũ Ðình Huỳnh còn là bí thư của ông Hồ, Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao cộng sản cho đến khi hưu trí năm 1964.

20. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 345.

21. Thành Tín, “Pháp du phiêu lưu ký”, Thông Luận.

nguồn: https://baovecovang2012.wordpress.com/2013/04/30/30-thang-4-thu-nhin-lai-tran-gia-phung/

Ai phải “tạ tội với Hoàng Sa”?

Ai phải “tạ tội với Hoàng Sa”?

Kỷ niệm 50 năm ngày Trung Công xâm chiếm Hoàng Sa trôi qua lặng lẽ trên hầu hết tờ báo lề đảng. Không có những trang tuyên truyền rầm rộ như 50 năm chiến thắng Đện Biên Phủ trên không hay 50 năm chiến thắng Mậu Thân với hình ảnh lễ lạc, phát biểu của lãnh đạo…

Một sự kiện nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn là “Các cựu binh Hoàng Sa và thân nhân thăm nhà trưng bày Hoàng Sa“, do tổ chức Nhịp Cầu Hoàng Sa tài trợ, cũng không được báo chí trong nước đưa tin.

Về danh nghĩa, nhà nước Việt Nam xác lập Hoàng Sa là huyện đảo, có ông Chủ tịch UBND Huyện hẳn hoi. Huyện biểu tượng, ông chủ tịch biểu tượng vì không có dân, không có đất. Công việc duy nhất của ông là biểu tượng trong sự kiện này. Nhưng trong ngày kỷ niệm đặc biệt, đoàn khách đặc biệt gồm: Năm cựu binh của VNCH tham gia trận Hải chiến bảo vệ Hoàng Sa ngày 19-1-1974 và bốn người con của những người lính VNCH đã hy sinh trong trận Hải chiến này chỉ được ông Lê Tiến Công, Giám đốc Nhà Trưng bày Hoàng Sa, đồng thời là Chánh Văn phòng UBND huyện đảo Hoàng Sa, đón tiếp.

Chừng như để hóa giải, tẩy xóa ý nghĩa của cuộc viếng thăm, báo Tuổi Trẻ có bài “Mãi nhắc nhớ Hoàng Sa của nước Việt” dài trên 1500 chữ nhưng không chữ nào nhắc đến Hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974, cũng không nhắc đến đoàn khách đặc biệt năm cựu binh VNCH và bốn hậu duệ của những tử sĩ tham gia Hải Chiến Hoàng Sa.

Bài viết nhấn mạnh: “Mỗi năm cứ đến ngày 19-1, UBND huyện Hoàng Sa (Đà Nẵng) đều gặp gỡ các nhân chứng lịch sử chủ quyền quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc”. Những nhân chứng được bài báo nêu tên đã kể chuyện câu cá bắn chim ở Hoàng Sa, ngày 19-1 cũng không nói là ngày gì! (1)

Ngày 20-1, trả lời báo chí, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao hát điệp khúc quen thuộc “Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam, chúng tôi có bằng chứng không thể chối cãi…”. Lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam ai cũng bận bịu trăm công nghìn việc như bao ngày khác, như là Trung Quốc chưa hề xâm chiếm Hoàng Sa và ngày đêm xây dựng quần đảo này thành căn cứ quân sự, có cảng biển, sân bay.

Lẻ loi trên Facebook có bài viết đau đớn, oặn thắt của ông Đặng Ngọc Tùng: “Tôi xin tạ tội!

Tung Dang Ngoc

”. Ông xác định: “Ngày 19/01/2024 kỷ niệm 50 năm “quần đảo Hoàng Sa” rời xa đất mẹ tổ quốc Việt Nam, nằm dưới sự quản lý tạm thời cuả “quân chiếm đóng Trung Quốc”.

Vì sao phải tạ tội? Ông Tùng kể lại, sau nhiều lần thăm bộ đội, truy điệu, tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh ở Trường Sa, “đã hình thành trong tôi ý tưởng ‘xây dựng khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma’ và ‘khu tưởng niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa’. Tôi đã đưa ý tưởng này ra bàn trong Ban Chấp Hành Tổng Liên Đoàn Lao Động (BCH TLĐLĐVN) và được thống nhất cao”.

Năm 2015, ông Tùng trực tiếp ký tên đóng dấu, và đọc lời kêu gọi cuộc vận động “nghĩa tình Hoàng Sa, Trường sa”  kêu gọi đóng góp tiền, của xây dựng hai khu tưởng niệm. Trong thời gian ngắn đã thu được gần 300 tỷ đồng và nhiều hiện vật để xây dựng hai khu tưởng niệm trên. Chỉ riêng gia đình ông đóng góp 400 triệu đồng.

Ngày 14/3/2015 kỷ niệm 27 năm ngày mất Gạc Ma, Tổng Liên đoàn (TLĐ) tổ chức lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng “khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma” tại bán đảo Cam Ranh. Khánh thành giai đoạn 1 vào ngày 15/07/2017, (chi phí xây dựng khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma hết khoảng 160 tỷ đồng.

Ngày 19/01/2016 kỷ niệm 42 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, TLĐ đã long trọng tổ chức lễ đặt viên đá xây dựng “khu tưởng niệm nghĩa sĩ Hoàng Sa” tại đảo Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

“Mọi công việc xây dựng đang được khẩn trương tiến hành, thì tháng 5/2016 tôi có quyết định thôi Bí thư Đảng đoàn, và thôi làm Chủ tịch TLĐ tôi đã bàn giao toàn bộ công việc cho người kế nhiệm, trong đó có việc tiếp tục xây dựng ‘khu tưởng niệm nghĩa sĩ Hoàng Sa’.

Từ ngày tôi nghỉ hưu, rất nhiều người đã đóng góp tiền của xây dựng hai khu tưởng niệm trên cứ gọi điện thoại hỏi thăm tôi bao giờ hoàn thành? Tôi đã mấy lần kiến nghị cùng các anh lãnh đạo TLĐ đương chức là phải tiếp tục thực hiện thì các anh trả lời “chúng em đang xúc tiến làm” nhưng lúc nào xong thì chưa biết.

Kỷ niệm 50 năm ngày quần đảo Hoàng Sa rời xa đất mẹ, đáng lẽ tôi phải thực hiện xong lời hứa với tổ tiên, với những người đã nằm xuống vì biển đảo quê hương. Khi truy điệu các anh gần đảo Gạc Ma, đáng lẽ tôi phải thực hiện trọn vẹn lời căn dặn trăn trối của Ba tôi, đáng lẽ tôi phải thực hiện cho được lời hứa trước hàng triệu nhân dân yêu nước đã đóng góp tiền của kiếm được rất khó khăn của mình cho việc xây dựng ‘2 khu tưởng niệm’. Nhưng đến ngày hôm nay sau 8 năm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng ‘khu tưởng niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa’ vẫn chưa được thực hiện.

Trước thềm năm mới tôi xin tạ tội cùng Tổ tiên, cùng Ba tôi và các anh, xin tạ tội cùng những người dân yêu nước đã tin tưởng đóng góp tiền của công sức cho việc xây dựng 2 khu tưởng niệm này, nhưng đến ngày hôm nay ‘khu tưởng niệm nghĩa sĩ Hoàng Sa’ vẫn chỉ là ‘viên đá đầu tiên’.

Tôi xin cúi đầu tạ tội!” (2)

Ông Đặng Ngọc Tùng tại lễ đặt đá Khu tưởng niệm Hoàng Sa.

Theo từ điển mở Wikipedia, ông Đặng Ngọc Tùng là ĐBQH 3 khóa, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam; Phó Chủ tịch liên hiệp công đoàn thế giới, Ủy viên Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội.

Theo báo Lao Động, ngày 2 tháng 6 năm 2014, liên quan đến việc Trung Quốc đưa dàn khoan Hải Dương 981 trái phép vào vùng biển Việt Nam, ông Đặng Ngọc Tùng phát biểu “Đây là bài học cho những ai còn mơ hồ về 16 chữ vàng, về 4 tốt”.

Theo báo Dân Trí, ngày 27/05/2015, Đại biểu hối thúc Luật Biểu tình khi Trung Quốc xâm phạm chủ quyền… (3)

Hiện nay, đường link vào các bài này đã bị lỗi 404. Điều đáng chú ý là ông Tùng đã bị cho thôi giữ chức Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động không chỉ  trong lúc xây dựng Khu Tưởng Niệm dở dang mà nhiệm kỳ Chủ Tịch của ông cũng còn đến hai năm mới hết. Người thay ông giữa dòng là “tiến sĩ chân vịt” Bùi Văn Cường, hiện nay là Tổng Thư ký Quốc Hội.

Ông Đặng Ngọc Tùng từng trả lời báo chí: “Binh sĩ ngã xuống ở Hoàng Sa hay ở Gạc Ma đều là những tấm gương hy sinh vì dân tộc. Họ đều đáng được trân trọng, thân nhân họ gặp khó khăn thì mình giúp đỡ. Góp được tiếng nói cho sự đoàn kết toàn dân tộc là đáp ứng mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc” (4).

Theo tường thuật của báo chí thời ấy, Khu tưởng niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa xây dựng tại núi Thới Lới, huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi). Nhiều đồ án hết sức công phu, tâm huyết, hướng về Hoàng Sa được thiết kế và đưa ra lấy ý kiến đóng góp của người dân. Tác phẩm “Người mẹ thắp lửa” của Kiến trúc sư Trần Văn Dũng (TP HCM) được chọn mẫu để làm công trình ý nghĩa này.

Khu tưởng niệm sau khi hoàn thành sẽ là nơi để đồng bào cả nước đến thăm viếng, ngưỡng vọng, tưởng nhớ những người con đất Việt đã quên mình bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc (5).

Ba năm bị đình hoãn tức tưởi sau khi ông Tùng bị cho thôi giữ chức, năm 2019 Tổng Liên đoàn Lao Động Việt Nam cho biết, đang hoàn tất các bước thủ tục cuối cùng để chính thức khởi công xây dựng Khu tưởng niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa tại Lý Sơn, Quảng Ngãi vào dịp lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa năm 2020 (tức từ 16.2 đến 16.3 âm lịch). Công trình cũng dự kiến hoàn tất, đưa vào hoạt động cuối năm 2020…

Năm 2022, ông Nguyễn Đình Bin, 78 tuổi, cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam, viết trên Facebook cá nhân “thiết tha kiến nghị” Đảng Cộng sản cầm quyền và nhà nước “truy phong Liệt sĩ và khen thưởng xứng đáng” các quân nhân và viên chức của Việt Nam Cộng Hòa “đã hy sinh để bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc” trong trận hải chiến ngày 19/1/1974.

Ông Nguyễn Đình Bin gọi những quân nhân VNCH đã hy sinh bảo vệ Hoàng Sa là “những người con đích thực của Dân tộc Việt Nam” và đề nghị Hà Nội áp dụng chính sách về người có công hiện hành đối với họ và thân nhân, cũng như với “tất cả sĩ quan, binh lính, viên chức khác của chính quyền VNCH và đồng bào miền Nam đã có công tham gia phục vụ cuộc chiến đấu lịch sử này”.

Ông Nguyễn Đình Bin cũng kiến nghị chính quyền cấp quốc gia “xây dựng Tượng đài xứng đáng về sự kiện lịch sử này tại thành phố Đà Nẵng”. “Làm việc này còn để khẳng định dứt khoát chủ quyền không thể tranh cãi của nước ta đối với quần đảo Hoàng Sa, rất cần thiết trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay”, ông Bin nhấn mạnh.

Kiến nghị của của Thứ trưởng Bin được đưa ra chỉ một ngày sau khi Thủ tướng Phạm Minh Chính lần đầu tiên thăm và làm lễ tưởng niệm 64 quân nhân Việt Nam hy sinh khi chống Trung Quốc đánh chiếm đá Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa ngày 14/3/1988.

[Ông Bin] lưu ý đến bối cảnh “nhà cầm quyền độc tài Nga đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trắng trợn chống lại nước láng giềng anh em Ukraina” và “Trung Quốc […] càng ra sức diễu võ, dương oai, tiếp tục xúc tiến tham vọng độc chiếm Biển Đông”, vị cựu thứ trưởng ngoại giao cho rằng, Đảng Cộng sản và nhà nước “phải đổi mới tư duy, có những hành động quyết liệt, thể hiện quan điểm rõ ràng, bản lĩnh cần thiết” nhân kỷ niệm hai cuộc hải chiến Hoàng Sa và Gạc Ma.

Ông Bin cũng chỉ ra rằng Tượng đài Tưởng niệm Liệt sĩ Gạc ma, đã được khánh thành năm 2017 ở Khánh Hòa; và Khu Tưởng niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa trên đảo Lý Sơn, bị bỏ dở từ 2016 đến nay; đều là công trình “hoàn toàn của dân, do dân”.

Nhìn rộng hơn, vị cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao, người cũng từng kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, đề nghị đảng cầm quyền và nhà nước “chấm dứt chính sách phân biệt đối xử, thực hiện chính sách xã hội hiện hành đối với cả các thương, phế binh, viên chức cũ của chính quyền VNCH và thân nhân”.

Dưới góc nhìn của ông Bin, khi thực hiện các kiến nghị nêu trên, việc làm đó “sẽ lay động mọi trái tim Việt, khơi dậy và thổi bùng nhiệt huyết yêu nước, tình nghĩa đồng bào, góp phần hòa giải, hòa hợp, hàn gắn vết thương dân tộc”.

Ông nhận định rằng, nếu làm được như vậy, người Việt ở trong cũng như ngoài nước sẽ thành một khối, đồng lòng sát cánh, đưa Việt Nam phát triển mạnh và bảo vệ vững chắc toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của quốc gia.

Chỉ khi nào toàn Dân với Đảng và Nhà nước trở thành một khối ý chí thống nhất thì mới thành công thật sự trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, ông kết luận trong bản kiến nghị của mình (7).

Gần hai năm qua, kiến nghị của ông cựu Thứ trưởng vẫn chìm trong im lặng. Công trình Khu Tưởng Niệm Nghĩa sĩ Hoàng Sa vẫn trì hoãn không thời hạn để ông cựu Chủ tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động phải ngậm ngùi TẠ TỘI.

Lịch sử rất công bằng, sẽ xá tội, ghi công cho ông Đặng Ngọc Tùng. Ngàn đời lịch sử sẽ không quên những ai ngăn trở việc xây Khu Tưởng Niệm Nghĩa Sĩ Hoàng Sa, xóa nhòa ý nghĩa xương máu ngày 19-1, khoét sâu hằn thù dân tộc, đớn hèn hữu nghị với giặc ngoại xâm, đàn áp người Việt yêu nước đấu tranh đòi chủ quyền dân tộc. Đó là những TỘI ĐỒ BÁN NƯỚC, BÁN DÂN.

Gió Bấc (RFA)

Chú thích:

1- https://tuoitre.vn/mai-nhac-nho-hoang-sa-cua-nuoc-viet-20240118000415623.htm

2- https://www.facebook.com/tung.dangngoc.90/posts/pfbid0eiE68pkLo7WxEkyEksu9mLLPdFn5ksZe8Z8VTj5R59Kb9R8tPh3RfCBWHWjpeWEFl

3- https://vi.wikipedia.org/wiki/Đặng Ngọc Tùng

4- https://vnexpress.net/xay-den-tuong-niem-gac-ma-la-nguyen-vong-toan-dan-2963507.html

5- https://tienphong.vn/dat-vien-da-dau-tien-xay-khu-tuong-niem-nghia-si-hoang-sa-post843242.tpo

6- https://laodong.vn/thoi-su/se-hoan-tat-xay-dung-khu-nghia-si-hoang-sa-trong-nam-2020-759601.ldo

7- https://www.voatiengviet.com/a/cuu-thu-truong-nguyen-dinh-bin-kien-nghi-xay-dung-tuong-dai-ve-vnch-bao-ve-hoang-sa/6486079.html

vIỆT nAM nGÀY nAY

ÁN NHÂN VĂN

Hiện đang có bao nhiêu đảng viên quan chức từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở mọi cấp, mọi cơ quan, mọi nơi liên quan đến tham nhũng? Hàng trăm? Hàng ngàn? Hàng chục ngàn? Muốn biết chính xác thật khó và cũng không thể cho dù có lùng sục tìm kiếm trên Google. Vì con số đó liên tục thay đổi, phải update hàng ngày, do thể chế chính trị độc đảng đẻ ra nó. Giống như bắt ruồi trên xác chết thú vật. Số bắt được thật đáng ghê sợ nhưng có hạng, còn biết số trứng ruồi đẻ ra thì vô phương!

Vì thế đảng muốn quảng cáo chuyện “đốt lò”. Báo chí được phép tham dự các phiên xử tham nhũng. Họ có thể ghi nhận và khai thác thêm phần tranh luận giữa công tố và luật sư bào chữa, ví dụ bị cáo cựu Trưởng phòng điều tra Bộ công an Hoàng Văn Hưng khẳng định trong cái vali anh ta nhận chỉ có 4 chai rượu thay vì 450 ngàn đô la mà bên công tố đuối lý, cãi không lại. Qua đó bộ mặt của tòa có vẻ bớt lem luốc hơn chút đỉnh so với những phiên xử “bọn phản động” chỉ trong mấy tiếng đồng hồ mà bản án lên tới 5 năm, 10 năm, 15 năm tù.

Tòa xử bọn tham nhũng cũng để tuyên truyền. Nhưng lại phản tuyên truyền vì chuyện “gia đình có công với cách mạng” và chuyện “nộp tiền khắc phục hậu quả”.

– Chuyện “gia đình có công với cách mạng” thì thử hỏi có quan chức nào, đặc biệt loại trung ương quản lý, không phải xuất thân từ gia đình có công với cách mạng? Hàng trăm loại đảng viên đó là “thành phần ưu tú” được đảng đào tạo đặc biệt để lãnh đạo, cái gọi là “cán bộ nguồn”, tại sao phạm pháp? Trong lúc các nước tự do dân chủ chẳng hề có “cán bộ nguồn”, chẳng hề có “gia đình có công với cách mạng” lại làm việc xuất sắc mà hiếm khi phạm pháp? Đơn giản chỉ vì thể chế dân chủ tự do dùng người tài, không quan tâm đến đảng phái. Rất nhiều người khi làm việc cho chính phủ phải chịu thiệt hại lớn về kinh tế cá nhân nhưng họ chấp nhận, vì đó là vinh dự được phục vụ đất nước.

Chế độ cộng sản hiện tại thì ngược lại. Đảng viên dùng bạc triệu (đô la) để chạy chọt vào các chức vụ nào đó, gọi là “chạy chức”. Mỗi chức vụ giá khác nhau. Chức vụ béo bở thì nhiều cơ hội tốt hơn để làm giàu. Khi mục đích là làm giàu thì chuyện buôn thần, bán thánh, đục khoét công quỹ, tham nhũng là đương nhiên. Chỉ khác là bị lộ và chưa bị lộ.

– Chuyện “nộp tiền khắc phục hậu quả” mới xảy ra từ đầu năm 2023 vì trước đó xử tù tội phạm còn tài sản tham nhũng không thu hồi được nên đảng mới nghĩ ra cách “nộp tiền khắc phục hậu quả”. Là cách đảng làm tiền bọn tham nhũng. Nói khác đi, là hợp pháp hóa cho bọn chúng dùng tiền để chạy án. Như tiền triệu đô gia đình bọn chúng chạy án trong hai phiên tòa “chuyến bay giải cứu” và “Việt Á” mọi người đều biết.

Đảng đã thu hồi được một số tiền còn nạn nhân do tham nhũng gây ra chẳng thấy ai nói đến.

Đảng thể hiện “tính nhân văn” như vậy nên trước tòa bọn tội phạm kể lể “công trạng”, “xin tha thứ”, “xin khoan hồng”, “xin lỗi đảng” mong được giảm án, được sớm trở về chăm sóc cha mẹ già yếu, con thơ bệnh tật… sau khi “nộp tiền khắc phục hậu quả”. Những bộ mặt hãnh tiến lúc tại chức bỗng rúm ró, nhàu nát khi van xin tự nó nói lên bản chất “cán bộ nguồn”, cũng là bản chất chế độ! Án chung thân của Hoàng Văn Hưng chỉ còn 20 năm tù là ví dụ.

Như vậy tòa án là của đảng. Đảng xử đảng viên. Là loại tòa ngụy trá, không có sự độc lập của ngành tư pháp như các nước theo thể chế có tam quyền phân lập.

Vì thế các đảng viên công tố nói về “gia đình có công với cách mạng”, về “công trạng”, về “tiền khắc phục hậu quả” của tội phạm để đề nghị giảm án. Các đảng viên chánh án dựa vào đó để tuyên án. Còn hậu quả tham nhũng thì trút lên đầu người dân, phải còng lưng đóng thuế.

Nhấn mạnh “tính nhân văn” của các phiên xử dành cho cán bộ sai phạm, tiếc là ông Nguyễn Phú Trọng quên béng hình ảnh các nhà thiêu thiêu không kịp xác trong đại dịch covid. Ông quên béng tình cảnh cả triệu người tìm con đường sống, phải chạy trối chết khỏi Sài Gòn, nhưng bị ép buộc quay lại nhà trọ theo lệnh “ai ở đâu ở đó” bất kể họ có thể chết vì đói chứ chưa nói đến covid. Ông quên béng hình ảnh trẻ thơ bị tách rời cha mẹ, trùm áo quần bảo hộ dắt ra xe chở đi tập trung trong đêm tối. Ông quên béng những hũ tro cốt (chưa chắc đúng tên người chết) giao cho thân nhân mà lúc bị đưa đi tập trung đang khỏe mạnh, “dương tính” chỉ vì que xét nghiệm dỏm, sau đó bị lây nhiễm rồi chết tại bệnh viện dã chiến, điều mà Bí thư Sài Gòn đã nói ra sự thật, đó là tập trung họ ở đó “không biết để làm gì” vì thiếu tất cả mọi chuẩn bị y tế cần thiết…

Ngay trong thời điểm đau thương khủng khiếp như thế mà cán bộ nòng cốt của ông đảng trưởng không có chút lương tri tối thiểu lại chỉ lo cấu kết với nhau thành hệ thống, biến đại họa covid thành cơ hội ngàn năm có một để tham nhũng!

Đảng viết ra Hiến pháp. Trong Hiến pháp ghi “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện”. Ông Nguyễn Phú Trọng là đảng trưởng, đang lãnh đạo toàn diện ở nhiệm kỳ thứ Ba. Chính ông nhiều lần nhấn mạnh “việc tuyển chọn nhân sự vô cùng quan trọng”. Tất cả “nhân sự vô cùng quan trọng” đó đều được chính ông tuyển chọn và ban cho chức vụ.

Nói cách khác, chính ông chọn “củi” rồi cũng chính ông phải “đốt lò” là do thể chế chính trị độc đảng của ông đẻ ra, đơn giản đến như thế mà ông không thể hiểu? Thể chế đó đã sụp đổ ngay tại cái nôi của nó là Liên bang Xô Viết và Đông Âu ông cũng không hề biết? Và cũng chính ông xác nhận sự mơ hồ của nó khi nói “đến cuối thế kỷ này chưa chắc có XHCN”.

Tất cả diễn ra hàng ngày, ngay trước mắt, mà chưa hề nghe ông nhận lãnh trách nhiệm.

Đảng trưởng không nhận trách nhiệm thì đảng viên cũng noi theo. Nhận trách nhiệm trở thành ngu, chỉ tự hại bản thân! Do đó họ làm ngơ để tiếp tục công tác. Đã tốn tiền chạy được chức thì phải thu lại cả vốn lẫn lời càng nhanh càng tốt, phòng khi bị lộ thì “nộp tiền khắc phục hậu quả”. Chấp nhận cái án nhẹ hều để sau đó tận hưởng suốt đời, đến cả đời cháu, chắt cũng không hết.

Ông đảng trưởng có “quý danh”, không biết do ai đặt, nhưng người nào đọc được sách báo cũng thừa biết. Việc ông không thấy, không hiểu được nguyên nhân đưa đến đại họa tham nhũng, đưa đến sự táng tận lương tâm của đảng viên dù đích thân ông tuyển chọn họ thì cái “quý danh” đó tự nó nói lên tất cả.

Ai đó đã đặt “quý danh” cho ông đảng trưởng từ cả chục năm về trước quả thật là tinh tế.

(13/1/2024)

Kông Kông (danchimviet.info)

Bắc Việt Nam, Việt Cộng từ chối xác nhận chủ quyền Hoàng Sa 50 năm trước

Năm mươi năm trước, Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hòa trong một cuộc chiến kéo dài chỉ vỏn vẹn hai ngày. Nó đánh dấu một trong những cuộc xung đột vũ trang đầu tiên liên quan tới tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.

Đến nay, Bắc Kinh vẫn nắm toàn quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và thậm chí còn mở rộng tuyên bố chủ quyền xuống quần đảo Trường Sa và xa hơn nữa về phía nam. Và họ không ngần ngại đối đầu với các nước láng giềng khác có tuyên bố chủ quyền chồng chéo, trong đó có Việt Nam.

Việt Nam tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo này và rằng đây là một lập trường nhất quán đã được duy trì từ lâu. Nhưng 50 năm trước, Bắc Việt Nam và các đồng minh cộng sản của họ ở miền Nam Việt Nam từ chối bình luận khi được hỏi về chủ quyền của Hoàng Sa vào lúc chiến sự đang diễn ra.

Ngày 19 tháng 1 năm 1974, tại một cuộc họp báo với các phóng viên quốc tế ở Sài Gòn, các quan chức Việt Cộng lẫn Bắc Việt Nam đều hai lần trả lời “Miễn bình luận” khi được hỏi ai sở hữu quần đảo Hoàng Sa, giữa lúc Trung Quốc tấn công các vị trí mà các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa nắm giữ trên các đảo này.

Cuối cùng, khi câu hỏi được lặp lại lần thứ ba, quan chức Việt Cộng, Tướng Hoàng Anh Tuấn, trả lời qua người thông dịch: ‘Tôi tin rằng ‘Miễn bình luận’ là đủ rồi,” theo tờ Times.

Một bản tin khác của nhật báo này vào ngày 25 tháng 1 năm 1974 cho biết một số quan chức Mỹ lưu ý rằng Bắc Việt Nam đã không nói gì về tranh chấp giữa Nam Việt Nam và Trung Quốc. Họ cho rằng sự im lặng đó “cho thấy Bắc Việt Nam lâm vào thế khó là không muốn lên tiếng ủng hộ việc Trung Quốc chiếm đảo mà lâu nay Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng lại không thể chỉ trích Trung Quốc.”

Về phần mình, Việt Nam Cộng Hòa nỗ lực kháng cự cuộc tấn công của Trung Quốc trên biển và lên tiếng trước cộng đồng quốc tế, nhưng cuối cùng phải chấp nhận thất bại. Bắc Kinh đã tiến hành một cuộc “tấn công tàn khốc” khiến Sài Gòn bị áp đảo ngay từ đầu.Nghe podcast ở đây.

Tin VOA

Trung Quốc ‘tấn công tàn khốc’ Việt Nam…

50 năm Hải chiến Hoàng Sa: Giới trẻ cần biết sự thật lịch sử

50 năm Hải chiến Hoàng Sa: Giới trẻ cần…

Việt Nam “quá yếu ớt” trong việc đòi lại chủ quyền ở Biển Đông

50 năm mất Hoàng Sa: Việt Nam “quá yếu …

50 năm nhìn lại Hoàng Sa – cuộc chiến vẫn còn đó

1974 – 2024 | 50 năm nhìn lại Hoàng Sa …

Tưởng Niệm Hoàng Sa 50 năm

vIỆT nAM nGÀY nAY

Lộc Hưng, 5 năm sau

Cách đây đúng 5 năm, tháng 1-1919, một lực lương quân đội, công an hùng hậu tới, tấn công khu Lộc Hưng, quận Tân Bình, nơi người dân di cư từ miền Bắc vào đã xây dựng, lập nghiệp từ năm 1954.

Trên 500 căn nhà bị giật sập, khu khóm khang trang trở thành gạch vụn, tài sản của cả một đời, thành mây khói. Toàn bộ cư dân bị trục xuất bằng võ lực, chỉ vì  đất hoang dã của Lộc Hưng ngày xưa bây giờ trở thành đất quý.

Sau nhiều cuộc tranh đấu quyết liệt, nhiều người tù tội, trở thành vô gia cư, tuyệt vọng, gõ mọi cửa để kiện tụng, phản kháng, kêu xin, một văn kiện của trung ương đã yêu cầu chính quyền địa phương, tạm thời “giữ nguyên hiện trạng khu đất, không tiến hành xây dựng rào chắn” trong thời gian người dân khiếu nại chưa được giải quyết.

Ngày 7/12/2023, chính quyền địa phương, bất chấp những cam kết nói trên, đã mang một lực lượng hùng hậu tới Lộc Hưng. Từ 5 giờ sáng, 4 xe cơ động chở người tới bố ráp, dựng rào sắt, phong toả hết khu vực, trong khi một nhóm khác rào đài Đức Mẹ.

Chuyện kiện tụng giữa con kiến và củ khoai vẫn tiếp tục…

Để kỷ niệm ngày đánh chiếm Lộc Hưng, xin đưa lại một bài viết trên blog này 5 năm trước.

***

Lộc Hưng: Cô bé áo đỏ

Hai hình ảnh lởn vởn trong đầu, mỗi lần nghĩ tới Lộc Hưng. Thứ nhất, video quay cảnh một người cha trèo trên đống nhà sập, té lên té xuống, đi tìm những mảnh đồ chơi của con bị nghiền nát. Thứ hai, hình một cháu gái áo đỏ buốn bã ngồi nhìn nhà mình bị kéo sập.

Cái gì diễn ra trong đầu một đứa bé ngồi nhìn cả thế giới của mình sụp đổ. Trong một xã hội bất nhân, tình cảm là một xa xỉ phẩm, ai bận tâm tới cái gì diễn ra trong đầu một đứa nhỏ?

Căn nhà là cả thế giới của đứa trẻ, là tổ ấm, là tình nghĩa gia đình, là tình yêu của mẹ, là kỷ niệm với cha, là những tiếng cười đùa với anh chị em. Tất cả thành mây khói.

Cái sụp đổ, mất mát, tan vỡ ấy sẽ lưu lại suốt đời đứa nhỏ, không có gì gột rửa được trong tâm não.

Không có gì sống lâu, vĩnh viễn, hơn những kỷ niệm thời thơ ấu. Càng về già, người ta càng thấm thía điều đó. Người ta quên chuyện xẩy ra hôm trước, nhưng nhớ những kỷ niệm thời thơ ấu.

Giáp Tết, quân ta đổ bộ, đánh chiếm khu vườn rau đã hoàn toàn thắng lợi, đã san bằng sào huyệt của địch. Trong một đêm, cả một vùng trước đó sôi sục sức sống trở thành một đống gạch vụn.

Từ năm 1954, dân di cư với mồ hôi nước mắt, đã biến một khu đất hoang thành một làng thịnh vượng, với trường học, nhà thờ, những ngày hội hè và tiếng reo hò của trẻ em.

Cái bất hạnh của dân Lộc Hưng là những mảnh đất hoang ngày xưa trở thành đất quý, cướp được, xây cao ốc, khách sạn sẽ biến tấc đất thành tấc vàng.

Nhìn cháu gái ngồi trước ngôi nhà, khu phố của mình bị san bằng, tự nhiên nghĩ tới một truyện ngắn của Nam Cao, tựa là “Mua Nhà”.

Đó là văn chương Việt Nam, cái thời người ta chưa nuôi văn nghệ sĩ như nuôi heo, người viết văn không tủi thân vì nhận được ít bổng lộc, không than vãn vì không được vỗ béo để có tâm huyết viết bài phục vụ chế độ. Cái thời người ta còn viết văn để phơi trần thực tế xã hội, để diễn tả cái nhức nhối, ngoài đời và trong đầu.

Cái thời chưa vô cảm.

Nam Cao kể chuyện mua nhà. Ngôi nhà, đúng hơn là túp lều của tác giả bị gió bão giựt sập. Phải nghĩ đến chuyện dựng một túp lều khác cho vợ con có chỗ trú ẩn. Có người dụ bán nhà, giá rẻ, vì chủ nhà thua bạc, chỉ còn căn nhà bán để gỡ.

Tác giả vay nợ để khỏi mất một cơ hội tốt. “Tôi chạy ngược chạy xuôi. Chỗ thì lãi năm phân. Chỗ thì lãi sáu phân. Cùng quá, tám phân cũng lấy liều”. Ngày đến gỡ nhà, tác giả thấy một anh đã thua bạc hết tiền, bán nhà “nằm thườn trên một cái giường tre chiếu rách, bẩn thỉu. Đứa con bé ngồi ngay dưới đất, ôm cái chân giường, rên. Nó đau bụng từ sáng sớm. Đứa con lớn vừa cạu nhạu, vừa đấm lưng em thùm thụp”. Người mua nhà xin chủ nhà dọn dẹp đồ đạc để thợ dỡ nhà.

Anh ta “cười chua chát: Đồ đạc thì có gì mà dọn? Chỉ có một cái giường này. Cứ quẳng bố nó ra ngoài kia cho tôi, rồi dỡ đi. Hắn đứng dậy, bảo con: Chúng mày cũng đứng lên. Sang nhà bác Vi nằm nhờ”.

Một lúc sau “chẳng biết đã gởi em cho ai được, đứa con gái lân la gần tôi xem dỡ nhà… Nó gầy ốm quá. Cổ tay cổ chân chỉ con con. Mặt chau chau. Quần áo rách lượt thượt. Răng nó cứ nhe ra một cách thương hại lắm. Tôi tự nhiên ngám ngẩm. Tôi thở dài ngán ngẩm…”

Khi người ta bắt đầu dỡ nhà, “con bé bừng mắt. Nó không nhe răng ra nữa. Đôi môi nó bụm lại. Hai má phình ra. Cứ thế, nó chẳng nói, chẳng rằng, chạy bình bịch sang hàng xóm… Bỗng tôi nghe một tiếng trẻ con nức nở và hờ: Mẹ ơi!”

Giữa con bé của Nam Cao và cháu gái áo đỏ ở Lộc Hưng, ba phần tư thế kỷ đã trôi qua. Bao nhiêu chiến tranh tương tàn đã làm tan hoang đất nước. Bao nhiêu triệu người đã bỏ mạng trong cuộc chiến giữa người cùng máu mủ, trên đường chạy giặc, vượt biển… Máu chảy thành sông, xương chất thành núi, để xây dựng thế giới đại đồng, để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tất cả những bi kịch ghê rợn, để được như ngày nay, “Nhìn tổng quát, đất nước có bao giờ được thế này không?” Ông Trọng không phải hoàn toàn vô lý. Với một nhóm du đãng đói rách từ trong rừng ra, tự nhiên ngồi trên một đống đô la, ngồi trên đầu trên cổ dân, quả thực “đất nước chưa bao giờ tốt đẹp như thế này”.

Nhưng với gần 100 triệu người khác, những người dân cùng khổ của Nam Cao? Với những cô bé áo đỏ ở Lộc Hưng?

Theo lời ông trùm công an Tô Lâm, ở thế kỷ 21, còn tệ hơn nữa: Có người tìm cách vào tù ngồi chơi xơi nước, vì ở bên ngoài không kiếm nổi mỗi tháng 17 kg gạo, 15 kg rau.

Cái gì khác nhau giữa thân phận người dân thời đại Nguyễn Phú Trọng so với thời thực dân cách đây gần một thế kỷ?

Nam Cao: “Có những ông bố, bà mẹ lụ khụ, chỉ vì thương con nghèo quá không có tiền chôn cất mà không nỡ chết”. Một cụ bà Lộc Hưng, có thân nhân tàn tật đau yếu, bị giựt sập nhà, bị quẳng ra lề đường, tâm sự: Chỉ mong người thân chết trước, vì nếu tôi chết trước, ai lo nuôi nấng, chăm sóc họ, họ ngủ đâu, ăn cái gì để sống? Thoạt nhìn, chẳng có gì thay đổi.

Gần một phần ba thế kỷ sau, dân Việt Nam vẫn tiếp tục thân trâu ngựa. Nhưng nhìn lại, suy nghĩ một chút, có sự thay đổi ghê rợn, và cái thay đổi đó, nghĩ cho cùng, chính là cái bi kịch lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Nó đã, và sẽ kéo theo, dồn dập, những bi kịch khác.

Cái thay đổi ghê rợn, là sau ba phần tư thế kỷ, người Việt Nam đã đánh mất nhân tính, trở thành những cái máy vô cảm.

Cái khác nhau là, trong Nam Cao, người mua nhà nhìn bé gái, hối hận, ray rứt, tự oán trách mình đã làm chuyện ác.

Ngày nay, người ta kéo hùng binh, du đãng đâm thuê chém mướn, tới phá nhà cửa của dân nghèo, không một ánh mắt tới cháu gái ngồi buồn bã trước cuộc đời tan vỡ. Tệ hơn nữa, coi đó chỉ là chuyện bình thường dưới huyện, và ngạc nhiên tại sao có người bận tâm?

Và người ta huy động báo chí nhà nước để rêu rao đó là khu nhà bất hợp pháp. Làm như những túp lều đáng giá bạc triệu đô la của bầu đoàn thê tử đầy tớ hoàn toàn là đất hợp pháp, không phải chẹn cổ, bóp họng người dân mà có.

Cái khác nhau là cách đây gần một phần ba thế kỷ, người ta còn biết xúc động, biết xấu hổ. Còn có lương tâm. Cái anh mua nhà của Nam Cao khởi đầu bằng sự áy náy: “Tôi có quyền gì mà cấm hắn? Hắn không bán cho tôi thì bán cho người khác. Tôi để lỡ một dịp may là tôi ngu. Vậy thì tôi mua cái nhà”. 

Hết áy náy, hay để đỡ áy náy, anh ta tìm cách bào chữa, triết lý vụn, để an ổn lương tâm: “Nghĩ ngợi làm gì nữa? Ở cảnh chúng ta lúc này, hạnh phúc cũng chỉ là một cái chăn hẹp. Người này co thì người kia bị hở. Đâu phải là tôi tệ, nhưng biết làm sao được? Ai bảo đời cứ khắt khe vậy? Giá người ta vẫn có thể nghĩ tới mình mà chẳng thiệt gì đến ai”.

Nhưng mặc dù tìm mọi cách trấn an, người mua nhà vẫn dằn vặt: “Tim tôi động một cái giống như bước hụt. Rồi nó đập loạng choạng. Tôi hơi lảo đảo. Bây giờ tôi không lẩn trốn những ý nghĩ của tôi đựợc nữa. Tôi ác quá! Tôi ác quá!”

Cái dằn vặt, thao thức đó, cái lòng trắc ẩn đó, là cái thắng để cái ác không ngự trị, để con người ngần ngại khi làm chuyện bất nhân, để xã hội còn là một xã hội tử tế.

LƯƠNG TÂM

Cái lương tâm đó, người Cộng Sản đã đánh tan hoang.

Bằng cả một hệ thống giáo dục, bằng cả một nhân sinh quan mới, bằng lối hành xử tàn tệ giữa người với người. Cái bất nhân trở thành một chuyện bình thường. Cái vô cảm đó là hậu quả tất yếu của một xã hội băng hoại, đầy những bất hạnh.

Antonio Gramsci giải thích: “Cái bất hạnh có hai hậu quả: Thường thường nó dập tắt tất cả tình thương của chúng ta với những người bất hạnh, và không hiếm hơn, nó dập tắt tất cả tình thương nơi những người bất hạnh đối với những người bất hạnh khác

Trong trường hợp Lộc Hưng, cái vô cảm đó có hai khuôn mặt.

Thứ nhất, cái vô cảm giữa những người bất hạnh. Khi tất cả đều là nạn nhân, bị bóc lột tới xương tủy, bị dày xéo tháng này qua năm khác, người ta không còn lòng trắc ẩn ngay cả với người đồng cảnh. Người ta khoanh tay nhìn, hy vọng chuyện đó sẽ không đến với mình.

Thứ hai, cái vô cảm giữa những người được chế độ ưu đãi đối với những người thấp cổ bé miệng. Anh ta không còn một chút day dứt lương tâm. Anh ta không muốn duỗi chân ra để hưởng cả cái chăn. Anh ta đá văng người khác ra đường để chiếm cả chăn, cả giường, cả phòng ngủ. Tệ hơn nữa, kinh hoàng hơn nữa, anh ta coi đó là một chuyện bình thường. Người ta không mua nhà nữa, người ta vác súng, kéo lâu la đi cướp nhà. Và ngạc nhiên, một cách thành thực, tại sao có người để tâm tới chuyện rất bình thường dưới huyện.

Một câu hát của Jacques Brel: ”Chez ces gens là, on ne pense pas. On compte”. (Nơi bọn đó, người ta không suy nghĩ. Người ta chỉ đếm [tiền])”.

Những người cướp đất Lộc Hưng không nhìn thấy cháu bé áo đỏ. Trước khi ngủ, họ không ray rứt, dằn vặt. Họ chỉ tính xem sẽ chia nhau được bao nhiêu. ”On compte”. Một dân tộc không còn lương tâm là một dân tộc tự hủy.

Nhà cửa có thể cất lại được, nhưng cái ray rứt của lương tâm, khi nó đã chết, sẽ không còn phương cách gì cứu vãn nổi. Và dân tộc chết chung, cùng một lúc với nó. Đó không phải là một cái chết tình cờ. Đó là một cái chết đúng quy trình. Chế độ độc tài nào cũng nhằm tiêu diệt đôi chút lương tri còn leo lét trong lòng người dân, để biến người dân thành những cái máy vô cảm, không còn sợ lương tâm, chỉ biết sợ và thần phục sức mạnh của kẻ cầm quyền.

Nhìn cô bé áo đỏ, không có người nào đến đập phá nhà cửa ở Lộc Hưng tự sỉ vả: “Tôi ác quá! Tôi ác quá!’

L’abbé Pierre, vị linh mục Pháp đã bỏ cả đời làm việc nghĩa, nói: ”Cái bệnh trầm trọng nhất (bệnh chết người) là sự vô cảm, dửng dưng”. (La maladie la plus mortelle est l’indifférance).

Trong đôi mắt buồn của cháu bé ngồi cô đơn, cả một cái buồn thảm của một dân tộc đang chết đuối…

Từ Thức (baotiengdan.com)

MỸ ĐI RỒI MỸ LẠI VỀ …

Mỹ Đi Rồi Mỹ Lại Về…

Trong thời gian gần đây, dư luận thế giới cũng như tại Á Châu, nhất là Việt Nam đang bàn tán xôn xao về việc các quan chức cao cấp Hoa Kỳ kể cả Tổng Thống Joe Biden nườm mượt thăm viếng Việt Nam để “nâng cấp” (upgrade) mối quan hệ song phương, ít nhất đó là lời tuyên bố “ngoại giao” trên giấy tờ. Kể ra, dư luận quan tâm cũng phải, vì trong cuộc chiến tranh Việt Nam, “bên chiến thắng” Việt Cộng và đối thủ “Mỹ Ngụy” đã là những kẻ tử thù không đội trời chung qua những trận đánh nẩy lửa khắp nơi như tại Khe Sanh, Đông Hà, Quảng Trị, An Lộc … ở Miền Nam, cùng những vụ dội bom khốc liệt nhằm đưa Bắc Việt trở về thời Đồ Đá. 

Nhưng thời gian qua mau, lòng người thay đổi, vết thương chiến tranh cũng lành lại, đôi bên đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tuy chưa tới mức tối huệ quốc, song cũng đã có nhiều tiến triển đáng khích lệ. Có thể nói, Việt Nam đã thay đổi nhiều, từ thái độ thù nghịch trước đây trở thành thân thiện hơn, có lẽ nhờ đường lối ngọai giao mấy chục tỷ đô la do khúc ruột ngàn dặm gửi về cố quốc mỗi năm. Nhìn cảnh tượng trai thanh gái lịch ăn chơi nhẩy nhót với nhạc vàng bolero trên khắp nẻo đường phố thành Hồ, ta có cảm tưởng bác đang cùng các cháu ngoan dạo điệu Son Đố Mì năm xưa, và dân Việt Nam còn Mỹ hơn cả … Mỹ Ngụy trước đây đã bị các đồng chí đánh đuổi đến cút và nhào!

Ngược giòng lịch sử cận đại, sau 20 năm gián đoạn kể từ khi kết thúc chiến tranh vào năm 1975, Việt Mỹ đã chính thức nối lại mối bang giao. Năm 1995 bãi bỏ cấm vận vào dưới thời Tổng Thống thổi kèn Bill Clinton. Năm 2006, Tổng Thống George W. Bush (con) viếng thăm và Việt Nam được tham gia vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO – World Trade Organization). Gần đây nhất, Phó Tổng Thống Kamala Harris, Bộ Trưởng Tài Thánh Janet Yellen, Bộ Trưởng Ngoại Giao Anthony Blinken và Bộ Trưởng Thương Mại Gina Raimondo cũng thi nhau ghé bến Việt Nam để “đẩy mạnh mối liên hệ giữa hai quốc gia”.Những hoạt động ngoại giao liên tiếp giữa đôi nêu trên không khỏi khiến người bàng quan chú ý, nói gì tới những quốc gia liên hệ trong vùng như Tầu Cộng, Philippines, Đài Loan, Nhật, Hàn Quốc … không khỏi quan tâm. Có thể Việt Nam đang ở ngã ba đường, cơ hội chuyển mình theo đường hướng tiến bộ hay … thoái bộ tùy theo cách hành xử! Chúng ta, những người Việt trong cũng như ngoài nước, đa số thường mong ước quê cha đất tổ sớm được ấm no thịnh vượng. Nhưng trước những hoàn cảnh khó xử tiến thối lưỡng nan giữa láng giềng gần và họ hàng xa, Việt Nam cần chuẩn bị ra sao và sẽ phải làm gì để nắm lấy cơ hội ngàn năm một thủa khiến nước giầu dân mạnh, thóat khỏi ách kìm kẹp của Tầu Cộng? Chúng ta sẽ lần lượt duyệt xét tình hình hiện tại, đồng thời khách quan nhận định về những biến chuyển quan trọng đã và đang xảy ra xảy ra để hy vọng tìm được câu trả lời thỏa đáng. Cũng nên nói trước, những lời tuyên bố hoặc thông báo chính thức đăng tải trên báo chí thường chỉ là cái “diện” hào nhoáng bề ngoài, chưa chắc phản ảnh đúng ý định thực sự là “điểm” ẩn dấu bên trong. Ngoại giao là một nghệ thuật phức tạp, cũng như tay chơi cao cờ, ít khi lộ rõ nước đi thật sự sắp tới.

Theo những thông báo chính thức, vào ngày 10 tháng 9 năm 2023 vừa qua, nhà lãnh đạo Việt Mỹ là Tổng Bí Thư Đảng Nguyễn Phú Trọng và Tổng Thống Jo Biden đã gặp nhau ở Hà Nội để ca ngợi sự hợp tác, tình hữu nghị anh em thân thiết cùng mối bang giao lịch sử có một không hai. Sau những lời lẽ tán tụng tâng bốc nhau như những bạn cố tri lâu ngày không gặp, cặp đôi kẻ thấp người cao Trọng – Biden thi nhau cất tiếng đồng tâm đồng ý nâng cấp mối quan hệ lên cấp cao hơn, ngang hàng với Nga Sô, Tầu Cộng v.v… Đôi bên cũng hứa hẹn hợp tác chặt chẽ trên các lãnh vực thương mại, ngoại giao, chính trị, chủ quyền và cả quân sự. Có thể nói, cặp Trọng – Biden như đôi tình nhân thắm thiết lâu ngày không gặp, huyên thuyên buông lời đường mật thề non hẹn biển “nâng cấp” về đủ mọi mặt còn hơn Kim Trọng tán tỉnh Thúy Kiều!

Cụ thể và chi tiết hơn, về phương diện ngoại giao và chính trị, đôi bên hứa hẹn hợp tác chặt chẽ giữa các chính đảng để trao đổi kinh nghiệm lập pháp cũng như hành pháp, đồng thời song phương thỏa thuận về luật lệ giữa hai quốc gia. Về mặt kinh tế, mậu dịch và đầu tư, đôi bên nhấn mạnh sẽ đẩy cao phát triển kinh tế, mở rộng thị trường cũng như hợp tác chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi để cùng thịnh vượng chung. Đặc biệt Hoa Kỳ ủng hộ và tán dương Viêt Nam về nỗ lực kinh tế thị trường và hứa hẹn sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Viện Nam dễ dàng hội nhập vào mô hình kinh tế tự do Hoa Kỳ. Đôi bên cũng thỏa thuận sẽ đối xử công bằng, tôn trọng và không kỳ thị. Hoa Kỳ cũng hứa hẹn trợ giúp tài chánh để VN có thể phát triển mạnh mẽ hơn về các lãnh vực khác như kiến tạo hạ tầng cơ sở, trợ giúp giới tiểu thương, gia tăng sản xuất năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm. Về mặt khoa học, kỹ thuật và công nghệ điện tử cấp cao, Hoa Kỳ cũng sẽ giúp đào tạo, huấn luyện kỹ sư, chuyên gia và kỹ thuật gia tin học để Việt Nam có thể tự phát minh và tạo sáng kiến thục dụng nâng cao đời sống hàng ngày.

Ngoài ra, các công ty của hai quốc gia sẽ hợp tác chặt chẽ để tạo điều kiện thuận tiện cho những đóng góp chung trong lãnh vực điện toán toàn cầu cũng như thị trường tiêu thụ trên mạng. Để đạt được những thành quả trên, Hoa Kỳ sẽ rộng mở các trường đại học và trung tâm huấn luyện kỹ thuật đào tạo các chuyên viên để Việt Nam có đội ngũ nhân viên sẵn sàng phục vụ nền kinh tế kỹ thuật cao. Về môi sinh, năng lượng và sức khỏe, Hoa Kỳ sẽ tích cực trợ giúp việc phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời giúp giảm thiểu ô nhiễm để dân chúng sinh sống trong môi trường lành ạnh hơn. Việt Nam cũng được khuyến khích và trợ giúp trong việc dùng năng lượng sạch như điện hay năng lượng mặt trời. Nói tóm lại, Việt Nam được Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ “nâng cấp” về hầu hết mọi phương diện như hào phóng trao cho tấm ngân phiếu còn bỏ trống số tiền, còn hơn Biden lo cho chính dân Mỹ, ngoại trừ một mặt rất quan trọng sẽ được đề cập sau.

Thành thực mà nói, căn cứ vào những thông báo chung với những lời hứa hẹn đường mật tốt đẹp, ta có cảm tưởng ông Biden là Tổng Thống nước Việt… Cộng và không khỏi mừng thầm vì viễn ảnh sau cơn mưa bom, trời đã sáng bằng đô la. Về hầu hết mọi mặt, Hoa Kỳ đã mở rộng một biểu đồ (roadmap) “hoành tráng” giúp Việt Nam trở thành con rồng con phượng trong nháy mắt, dễ dàng ngoạn mục và bay bướm như bước đi Tango!

Trong lúc thực tế, kể từ khi “thống nhất đất nước”, Việt Cộng đã khiến đất nước tụt hậu thành con chồn, con vượn. Không cần phải nói nhiều, ai cũng biết thực trạng xã hội Việt Nam hiện nay ra sao.  Ngoại trừ một số đảng viên được hưởng đặc quyền đặc lợi, phải nói 95% trong số gần 100 triệu dân Việt sống trong đói khổ dưới mức bần cùng. Tệ nạn tham nhũng, bè phái lan tràn vô phương cứu chữa. Đi tới đâu, muốn xin giấy tờ gì thì đầy tớ của nhân dân cũng hỏi “thủ tục đầu tiên”, nhất là những khúc ruột ngàn dặm muốn về thăm hay có thiện chí đóng góp cho sự phát triển của quê cha đất tổ đều hiểu rõ thủ tục này. Mỗi năm, Việt Kiều nước ngoài gửi về nước mấy chục tỉ đô la, tiền này được đổi thành giấy lộn in hình bác Hồ, rồi sau đó đô la đi đâu chỉ có đảng và nhà nước biết. Cứ nhìn gương Chủ Tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc đầu đã không còn tóc mà lại phải cay đắng từ chức sau khi than thở “vợ con tôi không làm tư lợi”! Nếu đúng như vậy thì không có tội, tại sao lại phải mất chức? Mà cũng lạ khi các chính khách ngoại quốc viếng thăm, ông Chủ Tịch Nước đâu không chường mặt, để ngài  Chủ Tịch … Đảng chính thức đón tiếp Biden rồi ra thông cáo chung? Hóa ra đất nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thật sự lại do đảng Cộng Sản cai trị, không độc lập tự do hạnh phúc như ra rả tuyên truyền. Đó là một sự lừa bịp trắng trợn theo kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”.

Hơn nữa, nếu Việt Nam đã có những bước tiến nhẩy vọt ngoạn mục như bác và đảng khoe khoang, thì làm gì mà nước ta cần đế quốc Mỹ “nâng cấp” nhiều đến như thế? Gần như về đủ mọi mặt, từ kinh tế, tài chánh, xã hội, giáo dục… Chỉ có thể chế chính trị “Bốn Không, Một Tùy” cần nâng cấp ưu tiên một để làm nền tảng căn bản cho các nâng cấp kia là không thấy nói đến? “Bốn không một tùy” của đảng ta chủ trương là Không liên minh quân sư, Không để ngoại quốc lập căn cứ quân sự, Không dựa vào nước ngoài, Không xử dụng vũ lực; nhưng những điều này còn Tùy vào thời thế. Hóa ra chủ trương này cũng lại là một chuỗi xảo ngữ, vì chỉ cần bác và đảng dùng cái một “Tùy” này cũng dư để phủ nhận cả ngàn cái Không chứ nói gì chỉ có bốn! Cũng như nhà nước công bố “dân chủ công hòa” nhưng lại dùng công an làm chủ vì phải Tùy theo tình hình, nên đầy tớ lại trở thành chủ cũng vẫn là Tùy!

Trong đoạn trước, chúng tôi có nói khi ông Biden đưa ra củ cà rốt ngon ngọt, khiến Việt Nam thèm muốn, nhưng đây lại là ngã ba đường hay một khúc quanh quan trọng đưa tới tiến bộ hay thoái bộ tùy theo cách hành xử. Lý do vì bên cạnh Việt Nam không phải chỉ có chú Sam nặng túi đô la, mà lại còn tên “láng giềng gần” Tầu Cộng thô lỗ tự xưng là con trời nhiều tham vọng luôn mưu đồ thôn tính Việt Nam qua mấy ngàn năm lịch sử. Sau khi bác Hồ phạm phải lỗi lầm tầy trời cõng rắn Tầu Cộng về cắn gà nhà Việt Nam, bây giờ mồi đã tới miệng, dễ gì rắn nhả? “Bác” chủ trương nhờ người anh em “sông liền sông, núi liền núi” giữ hộ đất nước, đến khi kháng chiến thành công rồi bạn sẽ trả, nhưng bác đã quên câu “tin bạn mất vợ nằm co một mình”. Chắc chắn Tầu Cộng và ngay cả Việt Cộng biết rõ đế quốc Mỹ chẳng hào phóng đến độ đổ tiền vào nhà khó như “gió vào nhà trống”, mà thật sự sau những lời lẽ ngon ngọt, chú Sam đang âm mưu “chiêu mộ” những sứ quân láng giềng của đối thủ để hình thành một trận thế bao vây Tầu Cộng không cho thoát khỏi Biển Đông.

Nhìn vào bản đồ Biển Đông, từ Bắc xuống Nam, Hoa Kỳ đã có những đồng minh tín cẩn như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Philippines… bố trí thành vòng cung như hàng rào che trấn vòng ngoài, lại có hạm đội 7 thường trực tuần tra. Hoa Kỳ cũng đang dùng kế hoạch đô la tương tự để lôi kéo Ấn Độ của ông Modi trở thành ngọn giáo sau lưng Tầu Cộng. Nay nếu có thêm được “đồng minh đặc công” Việt Nam như lưỡi dao kề sát mông phía Nam, chắc chắn Tầu Cộng sẽ mất ăn mất ngủ sợ có ngày “mất giống”. 
Chính vì muốn chiêu mộ Việt Nam nên Hoa Kỳ luôn lên tiếng bênh vực và giúp đỡ về mọi mặt mỗi khi bị Trung Cộng ăn hiếp. Có thể nói, lúc bị quan thầy bắt nạt như đưa giàn khoan dầu “cắm” ngay sân trước hay dùng chiến hạm tập trận uy hiếp lấn chiếm Biển Đông, tên đệ tử nhấp nhổm như ngồi phải cọc nhưng cũng chỉ ú ớ không giám ra mặt như Philippines đưa chiến hạm ra bảo vệ chủ quyền. Có lẽ nạn nhân Việt Nam còn phản đối yếu ớt hơn khách Hoa Kỳ. Tầu Cộng cũng thừa hiểu Hoa Kỳ đang dùng chính sách ngoại giao đô la, tuy ngoài miệng nói giúp Việt Nam tiến bộ, nhưng thật sự đang chiêu mộ tân binh, vì vậy trong tương lại rất gần chắc chắn đảng ta sẽ chịu thêm “sức ép” về mọi mặt. Nghe nói trước và cả sau khi các yếu nhân Hoa Kỳ thăm viếng Việt Nam, Tầu Cộng đã cho các quan thái thú tân thời qua Việt Nam đe dọa và nhắc nhở con cháu không được quên ơn. 

Ngòai áp lực răn đe của Tầu Cộng, Việt Nam còn lý do khác phải nghi ngại củ cà rốt ngon ngọt của chú Sam nên dù rất thèm nhưng chưa chắc đã giám nuốt. Đó là bài học cay đắng về tình đồng minh giữa Mỹ Và Miền Nam VN cách đây không lâu. Có thể nói trước đây, Mỹ đã dùng chiến tranh để tiếp cận Trung Cộng hầu cô lập kẻ thù số 1 Nga Sô; khi mục tiêu đã đạt được lúc Nixon qua thăm Trung Cộng vào năm 1972 dưới chiêu bài ngoại giao bóng bàn, Mỹ lập tức giải kết không thương tiếc để mặc Miền Nam dẫy chết! Lần này, biết đâu bổn cũ sẽ được soạn lại kiểu “bình mới rượu cũ” với cái nhãn hiệu hào nhoáng trợ giúp về mọi mặt. Khi chưa làm lành được với Tầu Cộng thì vồ vập ve vãn, tới khi cơm lành canh ngọt, chăn êm nệm ấm  thì Việt Cộng sẽ còn giá trị gì để người Mỹ quan tâm?

Thêm một điều nữa là các yếu nhân Hoa Kỳ khuyến khích và hứa trợ giúp Việt Nam phát triển nền Kinh Tế Thị Trường có nghĩa là tự do kinh doanh không lệ thuộc vào quyết định của nhà nước. Để đạt được tiến bộ và thịnh vượng, kinh tế thị trường tiên quyết đòi hỏi phải có tự do dân chủ, điều mà các quốc gia Cộng Sản tối kỵ. Trên thế giới hiện nay, chỉ còn lại 4 quốc gia theo chủ nghĩa Cộng Sản, đó là Tầu Cộng, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn. Ngoại trừ Tầu Cộng tương đối phát triển vì đã cải tiến theo kinh tế thị trường từ lâu nên có những công ty lớn như Alibaba chuyên bán hàng trên mạng như Amazon của Mỹ hay Bidu bắt chước Google v.v… nhưng mấy năm gần đây, khi Tập Cận Bình hay “vua Xi” bắt tự phong hoàng đế muôn đời, thì các tay chủ hãng giàu có như Jack Ma của Alibaba đã hầu như bị nhốt vô chuồng chó vì không thể tiếp tục kinh doanh dưới chế độ độc tài đảng trị. Ngay cả các hãng lớn của Mỹ từng có công lớn đem lại công ăn việc làm, thịnh vượng giàu có cho Tầu Cộng trước đây như Apple, IBM, Google … cũng từ từ cuốn gói đi nơi khác. Có thể nói đây là cơ hội bằng vàng cho Việt Nam phát triển. Nhưng chuyện gì cũng có cái giá của nó, vậy trước những lời hứa thuận lợi của Hoa Kỳ cho việc phát triển đất nước về mọi phương diện như “cá vượt vũ môn”, Việt Nam phải chuẩn bị những gì, và cân nhắc lợi hại ra sao?

Điều trước nhất Việt Nam bắt buộc phải thay đổi từ kinh tế đảng trị do nhà nước kiểm soát qua kinh tế thị trường các công ty tư nhân tự điều hành. Như vậy cũng đồng nghĩa với việc chuyển đổi từ thể chế độc tài đảng trị qua tự do dân chủ. Mô hình kinh tế thị trường dưới sự chỉ đạo của đảng và nhà nước đã chứng tỏ chỉ đưa tới tham nhũng, hối mại quyền thế đến phá sản tại Việt Nam và các quốc gia độc tài ở châu Á cũng như ở Nam Mỹ. Ngay cả Tầu Cộng hay Nga Sô cũng gặp rất nhiều khó khăn và vẫn còn phải lệ thuộc rất nhiều vào kinh tế thị trường của Hoa Kỳ và Âu Châu. Nói tóm lại khi các công ty bị nhà nước chỉ huy không được tự do kinh doanh và cạnh tranh thì sẽ không thể nào phát triển được. Tương tự nhà nông phải diệt trừ sâu bọ và cỏ hoang trước khi trồng trọt thì hoa mầu mới tươi tốt; muốn kinh tế thị trường phát triển thịnh vượng, việc đầu tiên là phải xóa bỏ chế độ sâu mọt độc tài đảng trị.

Tuy thay đổi thể chế là điều kiện tối cần, nhưng vẫn chưa phải là điều kiện đủ để đất nước tiến bộ. Trên thế giới có rất nhiều quốc gia chủ trương kinh tế thị trường, nhưng không phải nước nào cũng giầu có, kể cả những quốc gia kỳ cựu bên Âu Châu. Khi thể chế đã thay đổi, dân trí cũng cần phải nâng cao, trật tự an ninh xã hội và đời sống dân chúng, cần được bảo đảm, luật pháp công minh … Nói tóm lại tất cả những điều ngon tiếng ngọt trong củ cà rốt chú Sam đều phải được thực hiện. Liệu chính phủ và nhất là dân Việt Nam đã có đủ ý chí quyết tâm thắt lưng buộc bụng đổi mới toàn diện để thích hợp với hoàn cảnh không? Trong tình trạng hiện tại, thấy cảnh dân chúng ăn chơi trác táng luân lý bại hoại, cà phê cà pháo, nhạc bolero ngoài đương, uống bia tỷ lệ bình quân mỗi đầu người cao nhất thế giới, hút sách, cờ bạc, trộm cướp đĩ điếm … chúng tôi dù mong nước giầu dân mạnh, nhưng cũng rất đỗi hoài nghi sẽ thực hiện được canh tân đổi mới. Cứ nhìn lại kinh nghiệm của chính của người Việt hải ngoại, tuy đã sống dưới thể chế dân chủ, kinh tế thị trường ổn định nhất thế giới, ai nấy cũng phải chăm chỉ làm ăn mới có được cuộc sống ổn định. Được nghe nói có nhiều trường hợp người Việt được thân nhân bảo lãnh qua Hoa Kỳ, họ lại than phiền thà ở Việt Nam còn sướng hơn! Muốn đất nước chuyển mình thì chính mình phải lay chuyển, không chỉ há miệng chờ sung nhờ người giúp đỡ.

Trên đây mới chỉ bàn qua về những thay đổi tối cần về xã hội và kinh tế, ta đã thấy nhiều trở ngại, nhưng những áp lực chính trị từ bên ngoài, cụ thể từ phía Tầu Cộng còn nặng nề và khó giải quyết hơn nhiều. Tuy Hoa Kỳ và Việt Nam ngoài mặt chỉ nói về thay đổi đời sống xã hội và kinh tế giúp Việt Nam giàu có và thịnh vượng hơn, nhưng ai cũng hiểu Hoa Kỳ muốn lôi Việt Nam ra khỏi quĩ đạo của Tầu Cộng, kéo về phía mình. Chính Hoa Kỳ và Việt Nam cũng thẳng thừng tuyên bố muốn giảm bớt lệ thuộc vào “nước ngoài”. Đương nhiên, Tầu Cộng không bao giờ muốn điều này. Việt Cộng từ trước tới nay vẫn thường dùng chính sách ngoại giao luồn lách khi ngả bên này, lúc nghiêng phía kia giữa hai phe thân Nga Sô hay thân Tầu Cộng; nhưng bây giờ, chiến thuật đi giây cố hữu chắc không còn xử dụng được vì phải lựa chọn ranh giới rõ ràng, không thể chung sống hòa bình để thủ lợi giữa cả hai. Đây là thử thách lớn lao nhất cho Việt Nam.

Người ta thường nói “bán họ hàng xa, mua láng giềng gần”, nhưng liệu lần này Việt Nam có giám ra mặt “bán láng giềng gần Tầu Cộng xấu để mua họ hàng xa Hoa Kỳ tốt” ”không? Trong thực trạng nhà nước độc tài đảng trị hèn với giặc, ác với dân hiện tại, hơn nữa lời hứa của chú Sam đâu chưa thấy mà sức nặng của bác Xi đã nặng chĩu trên đầu, câu trả lời rõ ràng là “không”!

Ngoài những nghi vấn kể trên, chúng ta cũng đừng vội quên hậu quả tang thương của tình đồng minh gắn bó môi hở răng lạnh của Hoa Kỳ với VNCH trước đây. Hoa Kỳ đã “giải kết” với VNCH vì Nixon không còn làm Tổng thống nữa thì giờ đây, Việt Cộng cũng biết rõ Biden không phải là Tổng Thống mãn đời như kiểu Putin, Xi và Trọng. Bài học này quốc tế đều nhớ và Việt Cộng lại càng nhớ hơn ai hết vì chính bác và đảng là phe thắng cuộc được thủ lợi nuốt trọn miền Nam chính vì những lời hứa hẹn và thề thốt long trọng của Tổng Thống xứ Cờ Hoa. Khi Biden về vườn hay chỉ ngay khi vừa về tới Washington những lời tuyên bố trợ giúp hậu hĩnh chính Biden chưa chắc đã còn nhớ! Liệu Việt Nam có thể tin vào những lời hứa này không?

Vậy trước những khó khăn vừa đề cập tới, Việt Cộng sẽ tiến thoái ra sao trước củ cà rốt ngon ngọt của Hoa Kỳ và dưới áp lực răn đe nặng nề của Tầu Cộng? Chúng tôi dự đoán trước sức nặng của quan thầy trên đầu, Việt Cộng sẽ không giám công khai ra mặt đối kháng, dù trong lòng rất muốn. Điều Việt Cộng sẽ làm là tiếp tục tìm đủ cách chiều lòng quan thầy gọi dạ bảo vâng như đã làm từ trước tới nay để tạm thời sống còn. Bằng chứng là mới đây, Tầu Cộng vừa ngang nhiên vẽ lại bản đồ chiếm trọn Biển Đông mà Việt Cộng vẫn chẳng giám hé môi. Đây là hậu quả ngàn đời tai hại của hành động ngu xuẩn cõng rắn cắn gà nhà do bác Hồ khởi xướng khiến Việt Cộng phải nai lưng trả. Giả sử bây giờ Tầu Cộng có chiếm thêm mấy đảo ngoài Trường Sa, Việt Cộng cũng chỉ giám nhờ Mỹ la làng không hành động cụ thể. Chỉ khi nào Việt Nam công khai trở thành những đồng minh thân cận của Hoa Kỳ tại vùng Đông Nam Á như Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan v.v… thì may ra mới có hy vọng tránh khỏi hiểm họa diệt vong. Từ đây tới đó còn một đoạn đường xa thẳm chưa chắc Việt Cộng đã giám làm. Dù chông gai gian khổ, bắt buộc phải có bước đầu tiên, đó là công khai từ bỏ thể chế Cộng Sản như các quốc gia Đông Âu đã làm, rồi sau đó mới có cơ hội thực hiện các bước canh tân cần thiết kế tiếp để tự túc tự cường.

Bán họ hàng xa mua láng giềng gần hay bán láng giềng gần mua họ hàng xa? Đây là câu hỏi chưa có câu trả lời dứt khoát! Nhưng với tình thế hiện tại, chúng ta có thể thấy rõ câu sấm Trạng Trình “Mỹ đi rồi Mỹ lại về” hoặc “Mỹ về rổi Mỹ lại đi”…đang xẩy ra rất đúng trong trường hợp Việt Nam.

Trần Đỗ Cẩm
Austin, TX USA –  9/2023