Vũ Thất
Bảo Bình 1
Monthly Archives: Tháng Ba 2015
Còn nhớ hay chăng?
Còn nhớ hay chăng?
Lão Ngoan Đồng
Đã 40 năm kể từ tháng 4 năm 1975, những nỗi kinh hoàng , những ngày tang tóc, nỗi niềm uất hận đã mất nước cho khối cộng sản quốc tế, như vẫn còn hiện ra trước mắt biết bao người. Dù thực trạng của xã hội có thay đổi, nhưng nỗi lòng của những người Việt Nam không cộng sản, vẫn hằn sâu vào tâm khảm về những tội ác diệt chủng của bọn việt cộng tay sai của chủ nghĩa tam vô cộng sản: Vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc.
Những tội ác nầy của bè lũ việt cộng đã lên đến tột đỉnh trong tháng 3 và tháng 4 năm 1975
Tháng ba Gãy súng:
Bắt đầu từ ngày 10 tháng 3 năm 1975, Ban Mê Thuột, rồi pleiku, Kontum thất thủ, cao nguyên bỏ ngỏ, quân việt cộng tràn vào, dân bỏ chạy theo đoàn quân VNCHtrực thuộc vùng 1 vùng 2 đang “di tản chiến thuật”.
Tháng Ba là tháng thãm khốc của miền Trung,- Tháng Ba Gãy Súng vẽ lại cơn hồng thủy của một cuộc chiến xâm lược dã man, phủ chụp lên số phận của một dân tộc.
25 tháng 3-1975 nhiều đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, nhiều chiến sĩđã vị quốc vong thân bởi đạn pháo kích của cộng quân Bắc Việt, một số chiến sĩ đã tự sát tập thể bằng lựu đạn M26 để không bị lọt vào tay của cộng phỉ, một số khác bị cộng quân bắt làm tù binh, bị hành hạ bạo tàn.Có nhiều người phải bẻ súng đi vì hết đạn mà không còn để bổ sung, cây súng đã trở thành vật vô dụng.
Tháng 3/75 cả vùng 1 và vùng 2 đã lọt vào tay của cộng quân, dân và quân đã cùng nhau chạy thoát tầm kiểm soát của cộng phỉ, ùn ùn chạy xuống vùng 3 và vùng 4 để tỵ nạn, hoặc tái lập lại đơn vị.
Trên đường chạy giặc và rút lui của dân và quân Việt Nam Cộng Hòa, bọn việt cộng vô nhân tính, với đại bác, súng AK, xe tăng của khối cộng sản quốc tế, nả đạn hàng loạt không ngừng vào những người dân tỵ nạn vô tội, thây người chết chất thành đống ven vệ đường, người bị thương nằm rên siết la liệt trên mặt đường, tạo nên sự hãi hùng vànỗi kinh hoàng nhưđịa ngục chốn trần gian:
ngày thứ 1 – trận chiến Ban Mê Thuột – 10-3-1975.
ngày thứ 2 – Ban Mê Thuột thất thủ – 11-3-1975.
ngày thứ 3 – quân đoàn 2 chuẩn bị tái chiếm ban mê thuột – 12-3-1975.
ngày thứ 4 – di tản miền trung – 13-3-1975.
ngày thứ 5 – di tản cao nguyên – 14-3-1875.
ngày thứ 6 – tử chiến ở Quảng Nam – 15-3-1975.
ngày thứ 7 – quân đoàn 2 triệt thoái – 16-3-1975.
cùng ngày thứ 7 – trận chiến Quảng Tín – 16-3-1975.
ngày thứ 8- 17-3-1975
ngày thứ 9 – 18-3-1975
ngày thứ 10 –19-3-1975
ngày thứ 11 –20-3-1975
ngày thứ 12 –21-3-1975
ngày thứ 13 –22-3-1975
ngày thứ 14 –23-3-1975
ngày thứ 15 –24-3-1975
ngày thứ 16 – quân đoàn 1 rút khỏi Huế – 25-3-1975.
ngày thứ 16 – trận chiến quân khu 2 – 25-3-1975.
ngày thứ 17 – kịch chiến tại phú thứ – quân khu 2 – 26-3-1975.
ngày thứ 18 – trận chiến ở BìnhĐịnh – 27-3-1975.
ngày thứ 19 –28-3-1975
ngày thứ 20 – Tuyên Đức – Lâm Đồng – thất thủ – 29-3-1975.
ngày thứ 21 – trận chiến tại Quy Nhơn – 30-3-1975.
ngày thứ 22 – Bình Định thất thủ – 31-3-1975.
Tháng 4 tan hàng :
ngày thứ 23 – trận chiến tại Khánh Dương – quân khu 2 – 1-4-1975.
ngày thứ 24 – ngày cuối cùng của quân đoàn 2 – Nha Trang thất thủ – 2-4-1975.
ngày thứ 25 – Phan Rang hổn loạn – 3-4-1975.
ngày thứ 26 – trận chiến tại Ninh Thuận – 4-4-1975.
ngày thứ 27 – thủ tướng Trần Thiện Khiêm từ chức – 5-4-1975.
ngày thứ 28 – trận chiến tại Bình Thuận – 6-4-1975.
ngày thứ 29 – trận chiến tại miền Đông – 7-4-1975.
ngày thứ 30 – trận chiến quốc lộ 20 – 8-4-1975.
ngày thứ 31 – Long Khánh bùng nổ – 9-4-1975.
cùng ngày thứ 31 – trận chiến tại thị xã Tân An – 9-4-1975.
ngày thứ 32 – trận chiến thị xã Xuân Lộc – 10-4-1975.
ngày thứ 33 – trận chiến tại Dầu Giây – 11-4-1975.
ngày thứ 34 – kịch chiện tại Xuân Lộc – 12-4-1975.
ngày thứ 35 – trận chiến tại Bảo Định – 13-4-1975.
ngày thứ 36 – nội các mới trình diện – tại Sài Gòn – 14-4-1975.
ngày thứ 37 – trận Xuân Lộc – Dầu Giây thất thủ – 15-4-1975.
ngày thứ 38 – tại phòng tuyến Phan Rang – Phan Rang thất thủ – 16-4-1975.
ngày thứ 39 – trận chiến tại Xuân Lộc – 17-4-1975.
ngày thứ 40 – trận chiến tại Bình Thuận – 18-4-1975.
ngày thứ 41 – cuộc di tản của Tiểu Khu Bình Thuận – 19-4-1975.
cùng ngày thứ 41 – trận chiến tại Định Quán – 19-4-1975.
ngày thứ 42 – kịch chiến tại Xuân Lộc – 20-4-1975.
cùng ngày thứ 42 – ngày chúa nhật – 20-4-1975 – tại Sài Gòn.
ngày thứ 43 – tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức – 21-4-1975.
cùng ngày thứ 44 – trận chiến tại Tây Ninh – 22-4-1975.
cùng ngày thứ 44– trận chiến tại Trảng Bom – 22-4-1975.
cùng ngày thứ 44 – ngày thứ ba 22-4-1975 – tại Sài Gòn.
ngày thứ 45 – dàn xếp tình hình VNCH – 23-4-1975.
cùng ngày thứ 45 – thủ tướng Nguyễn Bá Cần từ chức – 23-4-1975.
cùng ngày thứ 45 – thứ tư ngày 23-4-1975.
ngày thứ 46 – thứ năm ngày 24-4-1975.
ngày thứ 47 – trận chiến tại Bình Dương – 25-4-1975.
ngày thứ 47 – thứ sáu ngày 25-4-1975.
ngày thứ 48 – trận chiến tại Bà Rịa – 26-3-1975.
cùng ngày thứ 48 – thứ bảy ngày 26-3-1975.
ngày thứ 49 – bầu tổng thống mới – 27-4-1975.
cùng ngày thứ 49 – sư đoàn 3 bộ binh giử Bà Rịa – 27-4-1975.
cùng ngày thứ 49 – trận chiến tại tân cảng cầu Sài Gòn – 27-4-1975.
cùng ngày thứ 49 – chúa nhật ngày 27-4-1975.
ngày thứ 50 – thứ hai ngày 28-4-1975 – ông Minh nhậm chức.
cùng ngày thứ 50 – thứ hai ngày 28-4-1975 – sư đoàn 5bộ binh tử chiến.
cùng ngày thứ 50 – thứ hai ngày 28-4-1975.
ngày thứ 51 – bộ Tổng Tham Mưu – 29-4-1975.
ngày thứ 51 – thứ ba ngày 29-4-1975.
ngày thứ 52 – thứ tư ngày 30-4-1975.
cùng ngày thứ 52 – ngày dài nhất của Dương Văn Minh – 30-4-1975.
cùng ngày thứ 52 – thứ tư ngày 30-4-1975 tiếng khóc hờn ai oán của quân dân vnch. (http://vnin21.blogspot.ca/2014/05/gio-nhung-to-lich-cu-1975.html )
Trong những ngày tháng 4/75, sự thảm khốc đè nặng trên quê hương và người dân Việt Nam Cộng Hòa.
Hơn bao giờ hết, sự thê thảm trong tháng 4/75 là vô cùng tận, tháng mà trời đất tối đen, âm u nhưâm phủ, tiếng than khóc đầy trời;
Tháng mà máu của những người vô tội bị tàn sát bởi những hung thần cộng sản, đã loan trên mặt đường đọng thành vũng;
Tháng của những trẻ thơ còn ôm vú mẹ, người đã bịđạn pháo của việt cộng giết chết nằm trên vũng máu đào;
Tháng của những tiếng hét phẩn nộ trong tuyệt vọng của những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã bịép buộc phải buông súng, tan hàng trước quân cộng phỉ, dẫn đến nước bị mất vào tay cộng sản quốc tế. Nhiều quân nhân từ binh sĩ đến cấp tướng của Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát vì không chịu đầu hàng việt cộng, theo lịnh của ông tổng thống bất hợp hiến Dương Văn Minh, đã chứng minh nghĩa khí ngập Trời của những con người “sinh vi tướng, tử vi thần”.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, là ngày mà người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa đã mất tất cả, bởi vì“mất nước là mất tất cả”. Mất từ mạng sống của người thân, đến mất cả căn nhà, tài sản, thậm chí mất cả đời sống như một con người.
Kết cuộc của ngày 30 tháng 4 là kết cuộc của máu và nước mắt của toàn thể công dân của nước VNCH, kết cuộc của những năm dài khổ sai trong các nhà tù cải tạo, kết cuộc của đời sống còn thua cả thú vật đói khát, khốn cùng.
Sự đau thương nầy đã hằn sâu vào tiềm thức của những người Việt Nam yêu nước, nó vẫn cứ hiển hiện chập chờn qua những cơn ác mộng, từ sau ngày đó cho mãi tận đến bây giờ sau 40 năm dài đăng đẳng, khó có thể quên đi theo thời gian.
Thế nhưng, cũng là người dân của nước Việt Nam Cộng Hòa, ngày nay có người lại nhẫn tâm quên đi những ngày tháng đau thương đó. Những lý do họ tự bào chữa, không thể rửa sạch được sự hèn hạ của thái độ dửng dưng với niềm đau của dân tộc.
Họ kêu gọi hảy “hòa hợp hòa giải” với bọn CS sát nhân vong bản đã tạo nên niềm đau nỗi hận của đồng bào mình. Họ cho rằng “thù hận gì cũng qua đi theo thời gian…Hảy hợp tác với kẻ thù để xây dựng lại quê hương…”
Họ quên rằng, đối với thù hận cá nhân có thể quên đi, nhưng thù nước là mối thù truyền kiếp, phải cố giữ lấy để làm kinh nghiệm cho tương lai, tránh sa vào lỗi lầm tái tục nên niềm đau nỗi hận sau nầy.
Dù không muốn, nhưng nếu hàng năm vào tháng 3 và 4, những tháng đau thương tang tóc của dân tộc, họ nhân danh “tưởng niệm ngày Quốc Hận 30 tháng 4”, tổ chức những tiệc tùng ca hát, nhảy múa vui chơi, dù dưới danh nghĩa gì, cũng không thể tránh khỏi mang xú danh là ăn mừng “ngày đại thắng mùa xuân” của việt cộng, kẻ đã tạo nên ngày Quốc Hận của dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày của “tháng 3 gãy súng, tháng 4 tan hàng”, mong rằng tập thể Người Việt Hải Ngoại hãy ghi nhớ, tháng 3 và tháng 4 là những tháng ngày của đau thương, những tháng ngày tang chế của hàng triệu gia đình đồng bào Việt Nam, nỡ lòng nào mà mình vui chơi trong những ngày đau thương đó.
Hãy nhớ cho kỹ lại truyền thống của ông cha, trong những ngày tháng tang chế, đau thương, không nên mặc quần áo màu mè, huống chi là tổ chức tiệc tùng vui chơi. Nếu là cá nhân ham vui vô tri thì có thể tạm xí xoá được, nhưng nếu là một tổ chức của người Việt tỵ nạn cộng sản, chắc không thể nào được những người Việt Nam Quốc Gia tha thứ cho đâu !
Lão Ngoan Đồng
nguồn: hồn việt UK
AI GIẢI PHÓNG AI SAU 40 NĂM NHÌN LẠI
Ngày 30-04-1975 được Cộng Sản Bắc Việt rêu rao là ngày họ “giải phóng” dân chúng miền Nam khỏi sự “kìm kẹp” của Mỹ-Ngụy. Tới nay đã 40 năm trôi qua, ta thử nhìn lại và suy ngẫm xem ngày này có phải là ngày miền Bắc đã giải phóng miền Nam không? Hay ngược lại, miền Nam đã giải phóng miền Bắc?
Trước khi đi vào nội dung của vấn đề, thiết tưởng ta cần phải đi tìm định nghĩa của động từ “giải phóng”.
Theo một vài cuốn tự điển Việt-Việt, động từ “giải phóng” có thể được định nghĩa như sau: Bằng cách này hay cách khác làm cho hay giúp cho một số người nào đó thoát ra khỏi một tình trạng xấu xa tồi tệ. Nói khác đi, nếu đẩy đưa một đối tượng nào đó từ một tình trạng tốt đẹp sang một tình trạng tồi tệ, thì không thể gọi là “giải phóng” được.
Dựa vào định nghĩa này và lấy ngày 30-04-1975 làm mốc thời gian để tìm hiểu xem đời sống thật sự của nhân dân hai miền Nam và Bắc vào thập niên 1970 như thế nào, để từ đó có thể rút ra một kết luận khách quan rằng: Ai đã giải phóng ai?
Để có một câu trả lời đúng đắn và chính xác cho câu hỏi này, có lẽ ta nên điểm qua cảm nghĩ và nhận thức về cuộc sống vật chất và tinh thần của dân chúng hai miền Nam và Bắc vào thập niên 1970 của một số nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà giáo, cán binh, cán bộ v.v… là những người đã được đào tạo và hun đúc bởi chính đảng Cộng Sản Việt Nam tại miền Bắc, khi họ có dịp vào miền Nam thăm viếng, công tác, hay sinh sống sau ngày 30-04-1975.
1. Thư của một cựu “giải phóng quân” cộng sản Việt Nam gửi cho một cựu “ngụy quân” Việt Nam Cộng Hòa (Nguyễn Bá Chổi)
Trong phần đầu thư, anh “cựu giải phóng quân” đã trân trọng thông báo cho anh “cựu ngụy quân” biết là hiện tại anh ta đang tự giác và tự nguyện “tiến nhanh, tiến mạnh và tiến vững chắc” trên con đường “Ngụy Quân Hóa và Mỹ Cút Hóa”. Anh CGPQ cũng đã dí dỏm giải thích về lý do tại sao anh ta đã và đang làm một việc ngược đời như thế:
“Ngụy-quân hóa vì cái gì của Ngụy tôi cũng thích, như nhạc Ngụy, sách Ngụy, nói chung là thượng vàng hạ cám gì của Ngụy đều… hiện đại. Mỹ-cút hóa là con cháu tôi bây giờ học tiếng Mỹ thay vì tiếng Nga, như đảng đã bái bai Kinh Tế Tập Trung đói meo chạy theo Kinh Tế Thị Trường béo bở, bỏ đồng Rúp ông Liên Xô để úp mặt vào đồng Đô “đế quốc” Mỹ…
“Mỹ-cút hóa vì con gái rượu của Thủ tướng Dũng thiếu gì con trai của các nhà lão thành Cách Mạng gạ gẫm cưa kéo mà cứ một hai “em chả, em chả”, cứ nằng nặc đòi lấy bằng được thằng con Ngụy đã cút theo Mỹ ngày Mỹ cút; Mỹ-cút hóa đến nỗi mấy đứa cháu tôi bây giờ mừng sinh nhật cũng hát bài Hép-Pi-Bớt-Đê (Happy Birth Day), hễ mở miệng là Ô Kê Ô Gà! Ra phố thì cứ đòi uống Cô Ca, ăn thì Mạc-Đá-Nồ (McDonald), Bơ-Gơ-Kinh (Burger King), Ken-Tơ-Ky-Phờ-Rai-Trích-Cần (Kentucky Fried Chicken)… con quan CS chỉ toàn muốn du học Mỹ Tư Bản….”
Sau đó anh CGPQ còn tỏ ra khâm phục và hết lời ca tụng quân dân miền Nam:
“Chả dấu gì Anh, sau khi thống nhất đất nước, tôi khoái Miền Nam của anh quá xá rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó anh.
“…. nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa “đồi trụy” Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam các anh có anh hùng Ngụy… Văn Thà, trong khi Thủ tướng Miền Bắc của chúng tôi tự cho mình là chân chính lại ký công hàm bán nước, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu cộng…”
Phần cuối thư anh CGPQ viết:
“Thưa anh Chổi, điều tôi muốn đề cập với anh hôm nay là cám ơn các anh đã… thua cuộc chiến tranh mà trước kia chúng tôi hăm hở gọi là “giải phóng Miền Nam”. Thực tế cho thấy đó là “giải phóng Miền Bắc”. Nói thế nghe ra là “phản động”, nhưng thực chất là vậy. Nếu bác Hồ từng nói “Nước Việt nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” – cứ cho bác Hồ nói đúng đi, mặc dầu theo sách giáo khoa Cách mạng dạy thì Việt Nam ta không chỉ có một mà có tới 53 dân tộc (trong Nam các anh gọi là 53 sắc tộc, xem ra đúng hơn), thì ta cũng có thể nói, nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng, sông có thể cạn núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên không thể chối cãi.
Cuối thư anh CGPQ cho biết thêm là anh cùng quê với ông Hồ, có lẽ trước 30-04-1975 anh rất hãnh diện về điều nay, song sau ngày này anh lại thấy đó là một điều làm anh hổ thẹn:
“Cảm ơn anh đã đọc hết thư này của một người cựu thù cùng máu đỏ da vàng, cùng quê hương “ông bác” mà ngày nay mỗi lần nghe nhắc đến là tôi muốn độn thổ vì xấu hổ.
2. Nhà báo Huy Đức, tác giả cuốn “Bên Thắng Cuộc”:
Trong phần “Mấy lời của Tác Giả” của cuốn “Bên Thắng Cuộc” Huy Đức cho biết sau ngày 30-04-1975 nhìn những chiếc xe đò Phi Long chạy từ miền Nam ra Bắc và qua hình ảnh ngươi lơ xe và những đồ đạc và sách báo của hành khách mang từ miền Nam ra, tuy đơn giản song cũng làm ngươi miền Bắc nhận ra được rằng dường như ở miền Nam có mức sống văn minh, phong phú và đa dạng, và không giống như những điều mà Huy Đức đã được dậy bảo trong sách giáo khoa của miền Bắc:
“Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giời văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dầy, Thép Đã Tôi Thế Đấy. Những chiếc máy Akai, radio cassette, được những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.”
3. Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc:
Phan Huy đã viết môt bài thơ có tựa đề là “Cảm Tạ Miền Nam” rất cảm động. Ngay trong phầm mở đầu ông viết:
“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với Miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.”
Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam và ông đã nhận ra miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên truyền và nhồi nhét vào đầu ông. Và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông Huy đã bật khóc:
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”
Phan Huy cũng không quên mô tả cuộc sống ở miền Bắc cộng sản, nơi ông đã sinh ra và lớn lên, vô cùng tồi tệ. Đời sống của nhân dân miền Bắc nghèo khó đến nỗi phải kéo cầy thay trâu và nhân phẩm của nhân dân miền Bắc bị xô đẩy xuống tới mức ngang hàng với bèo dâu:
“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng “kính yêu”
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: “Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”
Trong phần cuối bài thơ, ông Huy kết luận rằng, ngày 30-04-1975 thật sự không phải là ngày cộng sản miền Bắc “giải phóng” miền Nam thoát khỏi sự kìm kẹp của Mỹ Ngụy, mà ngược lại là ngày miền Nam đã phá màn u tối, đã khai đướng chỉ lối, đã khai sáng cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản, thật sự chúng chỉ là một bầy ác quỷ, và ông đã không tiếc lời cảm tạ nhân dân miền Nam:
“Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.”
Trong một bài thơ khác có nhan đề là “Tâm sự một đảng viên” ông Phan Huy đắng cay bộc lộ rằng, sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì ông quá tin nghe theo lời bác Hồ dạy bảo:
“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin
Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”
Và sở dĩ ông đã xung phong đi cứu Miền Nam ruột thịt là vì ông tin vào lời tuyên truyền của bác Hồ và đảng Cộng Sản:
“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng.”
Khi dự tính vào miền Nam thăm viếng một người bà con họ hàng, vì tin vào lời tuyên truyền của bác và đảng là người dân miền Nam đói khổ, nên ông đã chẳng quản đường xa diệu vợi mang theo một mớ gạo mà ông đã phải , dành dụm trong nhiều ngày mới có được, để biếu người bà con đói khó:
“Chẳng quên mang theo ký gạo để dành
Biếu người bà con trong nầy túng thiếu”
Song khi vào tới miền Nam, ông nhận ra rằng, đời sống của ngươi miền Nam hoàn toàn khác hẳn so với lời tuyên truyền láo khoét của bác và đảng:
“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin
Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình
Trước thành phố tự do và nhân bản.”
Khi đến và đứng trước nhà người bà con, ông Phan Huy mới nhận ra rằng, mớ gạo mà ông nâng niu mang từ miền Bắc thiên đường cộng sản, với hảo ý để biếu người bà con miền Nam bị Mỹ Ngụy kìm kẹp đói khó là một điều điều “lăng mạ” người bà con này:
“Tôi tìm đến người bà con trong xóm
Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi
Kí gạo đem theo nay đã mốc xì
Tôi vội vã dấu vào trong túi xách.
Anh bà con tôi- một ngươi công chức
Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui
Đem tặng cho tôi một cái đồng hồ
Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ.
Rồi anh nói: “Ngày mai đi cải tạo
Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi
Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về
Một chút tình người bà con Nam bộ.”
Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của nhân dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt của bác Hồ và đảng Cộng, ông Huy cảm thấy hổ thẹn với lương tâm nên đã than khóc:
“Trên đường về, đất trời như sụp đổ
Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước.”
4. Tiến sĩ Lê Hiển Dương, nguyên hiệu trường Đại Học Đồng Tháp:
Vào ngày 30-04-1975, ông Dương còn là sinh viên của trường đại học sư phạm Vinh. Khi nhận được tìn miền Nam đã được “giải phóng”, ông và các sinh viên của trường này đã hồ hỡi, phấn khởi, hò reo, ca hát và tổ chức hội họp liên miên để mừng miền Nam được giả phóng, vì tin rằng:
“từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng tôi không còn sống trong cảnh”Ngụy kềm Mỹ kẹp nữa…. Họ đã được đảng và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi giải phóng.”
Sau khi tốt nghiệp, ông Lê Hiển Dương may mắn lại được Đảng và Nhà Nước Cộng Sản bố trí vào miền Nam với một nhiệm vụ cao cả là:
“mang ‘ánh sáng’ văn hóa vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao năm qua sống trong u tồi lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có học hành gì?”
Khi xe chạy qua cầu Hiền Lương, ông Dương đã bắt đầu nhận ra rằng, cuộc sống của nhân dân miền Nam không như ông tưởng và hòan toàn không giống như lời tuyên truyền láo khoét của bác và đảng đã nhồi nhét vào đầu óc ông:
“Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế, đến Đà Nẵng.. rồi Nha Trang, Sài Gòn rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh, đâu đâu cũng lầu đài phố xá chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh chúng tôi đâu!”
Khi tới Thị trấn Cao Lãnh để nhận nhiệm sở, ông được nhà cầm quyên địa phương “bố trí” cho ở tại khách sạn Thiên Lợi và đây là cảm nhận của ông khi sống trong khách sạn này và nhân dịp này ông cũng cho biết xã hội miền Bắc quá lạc hậu và nghèo khó thê thảm:
“Chúng tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là hố xí tự hoại, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc XHCN lúc bấy giờ chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn “phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm cấp nhà nước của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và có thơ ca ngợi rằng:
‘Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc, phân xanh đầy nhà’…
Thậm chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các tập đoàn viên, các hợp tác xã viên can tội trộm cắp phân bắc từ các hố xí của láng giềng để nộp cho hợp tác xã… Tôi thấm thía hơn với những câu thơ ca ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên học sinh chúng tôi ra thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm lòng:
Dọn tí phân rơi nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu thóc cân ngô
Hai tay ta gom góp dựng cơ đồ…”
Từ nhận thức về mức sống cách biệt giửa hai miền Nam quốc gia và miền Bắc cộng sản, cùng những sự việc đã liên tiếp xẩy ra ở miền Nam sau ngày 30-04-1975 đã buộc một người trí thức như ông Dương phải suy nghĩ:
“Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam” … Rồi những trận đổi tiền để đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm tự do đó… tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng miền Nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội…
Dần dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG” đang được dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà… “Giải phóng miền nam” thực sự có mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng… những tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi… Còn lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với cảnh côi cút vì “sinh bắc tử nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào chiến trường và không bao giờ trở về nữa… Giải phóng cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng nước độc, là mất vợ.. mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc!”
5. Châu Hiển Lý (bộ đội tập kết 1954)
Trong một bài có nhan đề là “Cả Nước Đã Bị Lừa” được viết vào dip kỷ niệm 35 năm ngày gỉải phóng miền Nam, ông Châu Hiển Lý đã nhận định vế “chiến thắng 30 tháng 04” của đảng cộng sản Việt Nam như sau:
“Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt. “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.”
Tiếp theo đó ông Lý đã nêu ra một loạt câu hỏi để người đọc nhìn lại và suy ngẫm, rồi tự trả lời xem sau hơn nửa thế kỷ chủ nghĩa cộng sản được thực thi ở Việt Nam có phải là một chủ nghĩa tốt đẹp không? Nếu chủ nghĩa cộng sản thật sự tốt đẹp thì tại sao:
“ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?
– Sau năm 1975, tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp?
– Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông?
– Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị?
– Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?
– Tại sao đàn ông của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
– Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?
– Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?
– Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường , phải đi làm công cho các nước tư bản?
– Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?”
Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xả hội phi nhân tính . Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.”
Gần cuối bài “Cả nước đã bị lừa” ông Lý viết:
“Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”
Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ … đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.”
Cuối bài “Cả nước đã bị lừa” ông Lý đã dung hai câu thơ của nhà thơ Bùi Minh Quốc để kết luận về cái xã hội thiên đường cộng sản:
“Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”
6. Nhà báo Trần Quang Thành
Mới đây Á Châu Tự Do có đăng bài “Hồi Ức 30/4 của người Việt tại Đông Âu.” Trong bài này nhà báo Trần Quang Thành, cựu phóng viên đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam và đài Truyền hình Việt Nam, hiện định cư tại Bratisslava, thủ đô của Slovakia, đã phát biểu như sau:
“Khi tôi nghe đài phát thanh Tiếng Nói Việt Nam đưa tin ông Dương văn Minh đầu hàng, lúc đó tôi đang ở trên cầu Phan Thanh Giản Sài Gòn và chỉ ít phút sau là tôi có mặt ở dinh Độc Lập. Lúc đây mình nghĩ là mình đã hoàn thành một việc là tới được cái nơi mà người ta gọi là «hang ổ của Mỹ Nguỵ » lúc đó mình cứ tưởng là một cuộc chiến thắng giải phóng miền Nam dâng cho tổ quốc nhưng mà bây giờ nghĩ lại là mình bị lừa…
Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là chống Mỹ cứu nước nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân miền Bắc là: miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng sản Việt Nam tay sai cho 2 nước Cộng sản là Nga sô và Trung Cộng để mà thực hiện ý thức hệ Cộng sản bành trướng trên toàn thế giới chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ quốc như họ từng tuyền truyền là chống Mỹ xâm lược. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.»
7. Nhà văn Dương Thu Hương
Mới đây phóng viên Tường An, đài Á Châu Tự Do, đã có một cuộc trao đổi với nhà văn Dương Thu Hương về hồi ức của bà về ngày 30-04-1975. Câu hỏi đầu tiên mà phóng viên Tường An hỏi bà DTH là:
Thưa bà, cách đây đã lâu, trong một bài viết, bà có nói ngày 30/4, vào đến miền Nam bà đã ngồi trên vỉa hè và khóc. Nhân đây bà có thể giải thích về những giọt nước mắt ngày 30/4, 40 năm về trước không ạ ?
Nhà văn Dương Thu Hương:
Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn. Họ (phía bên thua cuộc) có thể văn minh hơn về văn hoá nhưng họ kém về phương diện tổ chức quân sự.
Sau này tôi mới hiểu tôi cũng ngây thơ tôi khóc thế thôi. 30/4 tôi còn khóc vì một lý do khác nữa là vì chúng tôi bị lừa. Chúng tôi đi không nghĩ ngày về, nhưng mà chúng tôi tưởng chiến thắng quân ngoại xâm nhưng thực sự hoàn toàn là không phải. Và tất cả tuổi trẻ của chúng tôi đã bị tiêu huỷ đi. Và vì vậy mà tôi khóc, trong những giọt nước mắt của tôi có cái phần chung cho dân tộc và có phần riêng của chúng tôi, của những người bạn tôi đã chết và của bản thân tôi đã hy sinh tuổi xuân một cách vô ích.»
Tóm lại qua cảm nghĩ và nhận thức của các nhà văn, nhà thơ, cán binh, cán bộ v.v… trên đây người ta có thể rút ra được những kết luận sau đây:
– Nhân dân miền Nam thật sự có tự do, dân chủ và no ấm.
– Nhân dân miền Bắc nghèo khó đến nỗi phải kéo cày thay trâu và nhân phẩm xuống thấp ngang hàng với bèo dâu.
– Nhờ giải phóng miền Nam, nhân dân miền Bắc thấy được ánh sáng văn minh và được dắt dẫn trở về quốc gia dân tộc.
– Nhà cửa và phố xá ở miền Nam khang trang chứ không lụp xụp như ở miền Bắc.
– Nhờ “giải phóng miền Nam” mà người miền Bắc biết thế nào là thế giới văn minh và hội nhập vào thế giới này.
– Đời sống của người dân miền Bắc vào thập niên 1970 thê thảm và lạc hậu đến nỗi người dân phải tranh giành nhau từng cục “phân bắc” để nộp cho hợp tác xã.
– Xã hội chủ nghĩa là một xã hội tồi tệ và nó được phơi bày rõ rệt qua sự nghèo khổ của nhân dân miền Bắc.
– Xã hội chủ nghĩa là một thời đen tối nhất trong lịch xử Việt Nam.
– Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thực chất chỉ là cuộc chiến của những người cộng sản Việt Nam làm tay sai cho Nga Sô và Trung Quốc.
– Chế độ miền Bắc là một chế độ man rợ.
– Chế độ miền Nam là một chế độ văn minh.
Tóm lại, qua những kết luận trên đây thiết tưởng cũng tạm đủ cho người ta thấy rõ là, ngày 30-04-1975 không thể gọi là ngày miền Bắc cộng sản giải phóng miền Nam tự do được, mà phải gọi ngược lại là ngày miền Nam đã giải phóng miền Bắc ra khỏi sự kìm kẹp, giam hãm và đô hộ của đảng Cộng Sản Việt Nam. Đồng thời cũng đã giúp nhân dân miền Bắc nhận ra được rằng, chế độ cộng sản là chế độ man rợ, chẳng những đã chọc thủng con ngươi của họ, mà còn đâm thủng luôn cả màng nhĩ của họ nữa, khiến họ không nghe được và không thấy được những xã hội văn minh và tiến bộ ở thế giới bên ngoài. Do đó, họ đang bị đảng Cộng Sản Việt Nam giam hãm, kìm kẹp và đọa đày trong một “nhà tù khổng lồ” song vẫn cứ tưởng là đang sống hạnh phúc tuyệt vời trong một “thiên đường văn minh nhất hành tinh”.
nguồn: Báo Tổ Quốc
Miền Nam và miền Bắc
Miền Nam và miền Bắc
Mới đây, đọc trên blog của nhà phê bình Vương Trí Nhàn ở trong nước, tôi bắt gặp một đoạn nhan đề “Gợi ý từ một nhà kinh tế” với một số nhận xét bất ngờ và thú vị.Đoạn viết khá ngắn, tôi xin phép được chép nguyên văn:
“Ông Đặng Phong, một nhà lịch sử kinh tế qua đời. Tôi biết ông nhân một lần đọc cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 do ông chủ biên, thấy có nhắc thoáng qua một điều gần như ai cũng nghĩ nhưng ít ai viết: trước 1975, kinh tế miền Nam đã ở trình độ cao hơn kinh tế miền Bắc. Tự ngẫm nghĩ, thì thấy đúng thế, không thể khác được, không thể nói ngược như chúng tôi vẫn nói, hoặc lảng tránh cho là cấm kỵ, và lấy những chuyện khác nói át đi.Nhìn rộng ra thấy không chỉ kinh tế tốt hơn mà giáo dục miền Nam lúc đó cũng hơn; không chỉ đường xá tốt, mà tư cách cá nhân của con người trong đó nói chung cũng trưởng thành hơn con người miền Bắc, trình độ hiểu biết và tuân thủ luật pháp tốt, giữa người với người có mối quan hệ tử tế, thanh thiếu niên lúc đó ham học và biết học hơn. Như vậy dễ dàng công nhận là trình độ sống của bà con trong ấy cao, nhất là dân thành phố. Dấn thêm một bước, trong đầu tôi thấy vụt lên cái ý, liệu có thể nói rằng, xét trên phương diện hiện đại hóa, là con đường tất yếu mà xã hội phải trải qua, nhân dân miền Nam đã đi xa hơn, đạt tới tầm mức văn hóa cao hơn? Như vậy bản thân khái niệm văn hóa mà lâu nay tôi vẫn hiểu cũng phải được xem xét lại chăng?Tôi sẽ tự phản bác lại nhiều lần trước khi đi đến kết luận … Nhưng càng đọc Đặng Phong ý tưởng trên càng không rời khỏi tôi.”
Đúng như Vương Trí Nhàn nói, điều Đặng Phong và ông nhận xét “gần như ai cũng nghĩ nhưng ít ai viết”. Bản thân tôi đã nghe một nhận xét như thế từ một bậc tài hoa nhưng nổi tiếng bảo thủ ở miền Bắc: nhà phê bình Hoài Thanh. Sau năm 1975,Hoài Thanh và bà vợ dọn vào Sài Gòn ở. Có hai hay ba lần gì đó, đâu khoảng 1980, một người thầy cũ thường rủ tôi đến thăm ông. Câu chuyện thường lan man từ văn học đến xã hội.Một lần, Hoài Thanh chép miệng nói, đại khái: “Bản chất của chế độ nguỵ là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào.”Đặng Phong so sánh về kinh tế, Hoài Thanh nói về văn hóa ứng xử, còn Vương Trí Nhàn bàn về văn hóa nói chung.
Người ta có thể thắc mắc: Vậy, ở những lãnh vực khác thì sao? Như văn học, mỹ thuật hay âm nhạc, chẳng hạn? Có gì khác giữa miền Nam và miền Bắc cũng như giữa miền Nam trước đây và cả nước bây giờ?Trong một bài phỏng vấn do Thụy Khuê thực hiện, in trên tạp chí Hợp Lưu số 103 ra vào tháng 1 và 2, 2009, sau, đăng lại trên trang Viet-studies của Trần Hữu Dũng, cũng chính Vương Trí Nhàn đã nêu lên một nhận xét sơ khởi. Theo ông, so với văn học miền Bắc, văn học miền Nam thể hiện “rõ hơn” và “đầy đủ hơn” những “đau khổ của con người” và những “tình thế bi thương, đau đớn, cả sự bơ vơ, bất lực, trong đời sống”. Khác với văn học miền Bắc, văn học miền Nam, một mặt, tiếp nối được truyền thống cách tân trong văn học tiền chiến; mặt khác, tiếp cận được với văn học thế giới, “sử dụng các quan niệm các phương thức của văn hóa phương Tây để diễn tả đời sống con người hiện đại”. Văn học miền Nam cũng có những yếu tố hiện thực và nhân đạo mà văn học miền Bắc không có.Tất cả những nhận xét nêu trên, về kinh tế, văn hóa hay văn học đều khá sơ lược. Một sự so sánh công bằng và chính xác cần nhiều nỗ lực hơn nữa. Vần cần xuất phát từ một tầm nhìn cao hơn nữa. Tiếc, những nỗ lực và tầm nhìn ấy, cho đến nay, vẫn còn tiềm ẩn đâu đó. Trên sách vở cũng như trong học đường, văn học và văn hóa miền Nam vẫn còn để trống, không ai nhắc đến, hoặc nếu nhắc, cũng nhắc với sự xuyên tạc và mạ lị như trong thời kỳ còn chiến tranh.Cũng xin nói luôn, trích lại đoạn văn của Vương Trí Nhàn cũng như kể lại lời nhận xét của Hoài Thanh, tôi không hề muốn khoét sâu vào óc kỳ thị địa phương vốn đầu độc mối quan hệ giữa những người cùng một nước.
Thứ nhất, sự kỳ thị và chia rẽ vùng miền ở Việt Nam đã quá trầm trọng; chúng ta không cần và cũng không nên làm trầm trọng thêm nữa. Nó không có ích gì cả. Ở một thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, khi mọi người đang tìm cách xoá mờ dần ranh giới và những khoảng cách giữa các quốc gia cũng như giữa các nền văn hoá, luôn luôn đề cao sự khoan dung và cởi mở, cổ xuý cho cách nhìn liên văn hoá (intercultural) và xuyên văn hoá (cross-cultural) mà người Việt mình cứ lại nhấp nhổm với chuyện Nam/Trung/Bắc thì không những vô duyên mà còn nguy hiểm, không những lạc hậu mà còn phản tiến hoá.
Thứ hai, không nên quên, liên quan đến con người, bất cứ sự khái quát hoá vội vã nào cũng đều bất cập và rất dễ sai lầm: ở miền Nam, không hiếm người thô bạo, thậm chí, thô bỉ, ngược lại, ở miền Bắc, không hiếm người cực kỳ nhã nhặn và lịch sự, rất “hiện đại” và ở tầm văn hoá cao.
Thứ ba, cũng không nên quên, trước đây, ít nhất là trước năm 1954, ở miền Bắc, đặc biệt, ở Hà Nội, người dân nổi tiếng là thanh lịch. Sau này, gặp lại một số người Hà Nội thuộc thế hệ cũ, tôi vẫn bắt gặp cái dáng vẻ thanh lịch truyền thống ấy. Ngôn ngữ họ thanh lịch. Tác phong họ thanh lịch. Cách hành xử của họ cũng thanh lịch. Nét thanh lịch ấy không còn thấy ở các thế hệ trẻ hơn.
Cho nên, những khác biệt giữa hai miền, Nam và Bắc, không nằm ở con người. Cũng không nằm ở truyền thống, nơi ưu thế rõ ràng là nghiêng hẳn về phía miền Bắc. Sự khác biệt chủ yếu nằm ở chế độ. Liên quan đến chế độ, ở khía cạnh chúng ta đang bàn, yếu tố quan trọng nhất là văn hoá, trong đó nổi bật nhất là văn hóa chính trị, tức những cách diễn dịch cũng như những quy phạm và quy ước mà mọi người cùng chia sẻ về quyền lực và trách nhiệm. Những quy ước và những quy phạm ấy không phải tự nhiên mà có. Chúng là những gì người ta thụ đắc trong môi trường giáo dục, từ gia đình đến học đường và xã hội. Trong việc thụ đắc ấy, vai trò của chế độ đóng vai chủ đạo: Chính chế độ, cụ thể là nhà nước, quyết định về chương trình giáo dục cũng như nội dung của truyền thông đại chúng, qua đó, hình thành những mẫu người mà họ cần và muốn.
Trong suốt hơn nửa thế kỷ, lúc nào nhà cầm quyền cũng tuyên dương hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nhưng nhìn lại, chúng ta chỉ thấy có một điểm trong mẫu hình con người mới ấy thành hiện thực và được phổ biến: tính thiếu thật thà. Nghiên cứu về văn học cũng như văn hóa miền Nam trong tương quan so sánh với miền Bắc hay cả nước hiện nay không phải nhằm phục hồi chế độ miền Nam vốn đã thuộc về quá khứ xa lắc và cũng không nhằm gây chia rẽ vùng miền. Mà, theo tôi, chỉ nhằm hai mục đích chính: thứ nhất, công bằng với lịch sử; và thứ hai, để nhận diện đầy đủ hơn những thất bại trong chính sách văn học và văn hóa hiện nay, từ đó, tìm cách khắc phục.Cứ quay lưng lại với thực tế và cứ ra rả với những khẩu hiệu láo khoét rỗng tuếch về những thành tựu đầy ảo tưởng, chúng ta chỉ kéo dài sự thất bại mà thôi. Chả hay ho gì!
Trung tá Lục quân Hoa Kỳ Phạm Phan Lang
Bài THANH PHONG
WESTMINSTER – Trong buổi Tưởng Niệm Quân, Dân, Cán, Chính VNCH đã tử thương trên Liên Tỉnh Lộ 7 B, tổ chức tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt – Mỹ ở Westminster hôm thứ Sáu tuần qua (Viễn Đông đã tường thuật trong số báo ra ngày thứ Hai, 23 tháng Ba, 2015), có một vị khách đặc biệt từ nơi xa về tham dự. Qua sự giới thiệu của nhà văn Phạm Tín An Ninh từ Na Uy, chúng tôi đã tiếp xúc với một người phụ nữ Việt Nam đầu tiên mang cấp bậc Trung Tá trong Quân Lực Hoa Kỳ, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn:
Viễn Đông: Trước hết, xin bà vui lòng cho độc giả Viễn Đông biết, trước khi sang định cư tại Hoa Kỳ bà ở đâu tại Việt Nam, và có tham gia trong Quân Lực VNCH không?
Bà Phạm Phan Lang: Tôi ở Saigon và qua Mỹ năm 1975, trước đó tôi không ở trong quân đội VNCH hay làm việc trong các cơ quan chính phủ. Nhưng phu quân của tôi là Hải Quân Thiếu Tá Phan Văn Diên Khóa 14 HQ (đã quá cố).
Viễn Đông: Bà gia nhập quân lực Hoa Kỳ trong trường hợp nào và tại sao bà tham gia vào quân đội?
Bà Phạm Phan Lang: Thưa anh, có thể tôi không phải là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên tham gia vào Quân Lực Hoa Kỳ, nhưng tôi là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên lên cấp bậc Trung Tá trong Quân Lực Mỹ. Lúc qua Hoa Kỳ tôi mất hết bằng cấp tại Saigon thành thử tôi phải đi học lại. Khi tôi ra trường tôi cần một cái bằng bác sĩ nội khoa và trong quân đội Mỹ lúc bấy giờ họ cần người có cái bằng đó. Điều kiện cũng hơi khó khăn nhưng tôi may mắn được lọt vào. Tôi nghĩ mình chỉ ở trong quân đội ba năm nhưng không ngờ tôi ở tới 22 năm
VĐ: Lý do nào bà ở trong Quân Lực Mỹ tới 22 năm?
PPL: Sau khi phục vụ trong Quân Lực Hoa Kỳ ở ngành Quân Y Lục Quân, tôi thấy đây là một môi trường rất tốt để huấn luyện bản thân về nhiều phương diện, nhưng quan trọng hơn cả, tôi nghĩ mình có bổn phận đóng góp công sức, khả năng của mình cho đất nước đã cưu mang mình và đồng bào mình khi phải bỏ nước ra đi tìm tự do.
VĐ: Là người phụ nữ, lại là phụ nữ Việt Nam với vóc dáng nhỏ con và vẫn được cho là “chân yếu tay mềm,”bà tham gia QL Hoa Kỳ, lúc đầu bà có cảm thấy khó khăn, trở ngại không?
PPL: Khó khăn thì cũng có nhưng thứ nhứt là vấn đề người ta luôn cho rằng phái nữ thua kém phái nam, nên tôi phải chứng tỏ mình có khả năng về lãnh đạo và nghề nghiệp, ngay cả phần hành tôi làm chief cũng vậy, và ngày cả những vị Tướng, Tá mà tôi làm việc chung với họ, tôi luôn luôn phải chứng tỏ mình là người phụ nữ Việt Nam có bản lĩnh, có khả năng. Chính điều này khiến tôi được họ nể trọng.
VĐ: Bà giải ngũ năm nào và lý do giải ngũ?
PPL: Tôi giải ngũ năm 2002 lý do là mình phục vụ trong quân đội cũng với thời gian khá lâu, nay đã đến lúc mình cần dành thời giờ cho gia đình và tôi xin giải ngũ…
VĐ: Sau khi giải ngũ, bà về cư ngụ tại đâu và làm việc gì?
PPL: Sau khi giải ngũ, tôi không làm gì nữa và hiện nay chúng tôi đang sống tại Hawaii, chỉ giúp được con cháu về vấn đề học hỏi, nghiên cứu.
VĐ: Trước khi kết thúc, xin bà cho các bạn trẻ VN đang sống tại hải ngoại một lời khuyên.
PPL: Theo tôi, quân đội Hoa Kỳ nói riêng và quân đội nói chung đã huấn luyện cho con người trở nên mạnh mẽ, can trường và đối với riêng tôi, quân đội đã làm cho tôi phát triển không những về lãnh vực nghề nghiệp mà còn về lãnh vực cá nhân nữa, thành thử ban đầu tôi nghĩ tôi không thể ở lâu trong quân đội như thế nhưng sau đó tôi nghĩ, nếu mình muốn thì mình có thể làm được, và tôi nghĩ các em trẻ sau này nếu gia nhập quân đội Mỹ, Theo tôi, ngoài việc đền ơn quốc gia đã giúp mình, quân đội còn giúp mình có cơ hội trở thành người tốt trong xã hội và phát huy sáng kiến, khả năng của mình sau này.
VĐ: Xin cám ơn những lời chia sẻ của bà.
PPL: Xin cho tôi gửi lời thăm hỏi và cám ơn đến Ban Giám Đốc và tất cả các anh chị trong tòa soạn nhật báo Viễn Đông.
Trung Tá Lục Quân Phạm Phan Lang
Phạm Tín An Ninh
Người Việt hải ngoại, có lẽ ít ai được biết: Người đàn bà Mỹ gốc Việt mang cấp bậc Trung Tá đầu tiên của Quân Lực Hoa Kỳ, là phu nhân của một cựu Thiếu Tá Hải Quân VNCH, di tản sang Mỹ cùng chồng và ba đứa con vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam: Trung Tá Lục Quân Phạm Phan Lang (đã nhận thông báo sẽ thăng cấp Đại Tá, trước khi xin về hưu).
Phạm Phan Lang sinh ra và cả một thời tuổi thơ sống cùng gia đình ở Nha Trang, theo học tại trường Nữ Trung Học và Võ Tánh. Nha Trang là thành phố biển thơ mộng, nơi có hai quân trường nổi tiếng: Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân và Hải Quân, với những chàng trai hào hoa theo nghiệp kiếm cung, chọn cuộc đời bay bổng và hải hành. Trái tim cuả những chàng trai này đã một thời bị khốn khổ bởi bao nhiêu người đẹp của Nha Trang. Thời ấy, dường như những cặp tình nhân SVSQ Hải Quân và Nữ Sinh Trung Học Nha Trang là những đôi tình nhân làm đẹp phố phường nhất. Trong số đó có đôi uyên ương Phạm văn Diên và Phan Thị Lang. Ngày ấy Lang là một cô bé khá xinh, tính tình hiền dịu dễ thương, nên mới học Đệ lục là đã làm mê mệt chàng SVSQ họ Phạm. Cuộc tình kéo dài mãi đến khi Lang đậu xong tú tài 2 (năm1969) hai người mới làm đám cưới.
Anh Phạm văn Diên tốt nghiệp khóa 14 HQ (Đệ Nhị Kim Ngưu), trước ngày 30/4/75, mang cấp bậc Thiếu Tá và chỉ huy một chiến hạm PGM615 (loại nhỏ).
Vào nửa đêm 29.4.75, Thiếu Tá Diên đưa chiến hạm rời khỏi Việt Nam, mang theo vợ, 3 đứa con nhỏ, 1, 3 và 5 tuổi, cùng cha mẹ già trên tuổi 70 và cậu em vợ, đang theo học đại học Luật Khoa Sài Gòn. Ngoài gia đình, trên tàu còn có thủy thủ đoàn và khoảng hơn 150 người tị nạn khác. Chiến hạm của Thiếu Tá Diên vừa tham dự các cuộc hành quân tàn khốc cuối cùng tại Huế, Quảng Trị,Vùng I, chưa kịp sửa chữa, bảo trì, nên lúc ra khơi bị hư hỏng và nước tràn vào, nhưng may mắn đã được cứu bởi một tàu HQ khác mà Thiếu Tá Diên đã liên lạc được. Cũng trên chuyến đi này, gia đình bị mất hết tư trang, vàng bạc mang theo, nên lúc lên bờ chỉ còn hai bàn tay trắng.
Cũng như nhiều gia đình khác, thời gian đầu đến Mỹ rất vất vả, vợ chồng Thiếu Tá Diên phải làm đủ nghề để sống: thợ mộc, thợ hồ, rửa bát đĩa cho nhà hàng, tiệm ăn, dạy Anh ngữ cho trẻ em Việt Nam ở một trường Tiểu Học, nhổ cỏ trong những cánh đồng cà, hái trái cây, trông nom một trại gà với hơn 60.000 con. Với tính kiên nhẫn và nghị lực, cả hai vợ chồng và cậu em vừa làm vừa theo học chương trình đại học tại University of Maryland, Eastern Shore.
Đường Vào Binh Nghiệp
Năm 1980, chị Phạm Phan Lang đậu được cùng lúc hai bằng Cử nhân, trong đó có bằng Nutrition and Dietetics (Dinh Dưỡng Học). Muốn làm việc trong ngành này, cần phải qua một khóa Thực Tập Dinh Dưỡng (Dietetic Internship). Chị Phạm Phan Lang đã nộp đơn xin thực tập ở một số trường đại học, trong đó có cả Chương Trình Thực Tập Dinh Dưỡng của Lục Quân Hoa Kỳ (US Army Dietetic Internship).
Lúc bấy giờ, chương trình Thực Tập Dinh Dưỡng của Army đòi hỏi khá nhiều điều kiện khó khăn: điểm trung bình tối thiểu là 3.5, phải là công dân Hoa Kỳ, phải dưới 30 tuổi, phải có ít nhất là 3 lá thư giới thiệu, cùng một số điều kiện khác. Trong số những điều kiện này, ít nhất có hai điều chị Phạm Phan Lang không có, đó là quốc tịch Hoa Kỳ và đã trên tuổi 30. Tuy nhiên, do trường hợp khá đặc biệt và có lẽ do thán phục nghị lực và khả năng của một người đàn bà tị nạn, cuối cùng chị đã được chấp nhận vào chương trình này. Đây là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt mà theo chị, mãi đến sau này, vị Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng của Army Dietetic Internship đã cho chị biết.
Mặc dù lúc ấy, chị Phạm Phan Lang cũng được nhận vào thực tập ở một số trường đại học khác, nhưng chị đã chọn Chương Trình Army này. Chị cho biết, chị chọn Army không phải vì chị yêu đời lính, hay “muốn đi lính”, mà chỉ vì những lý do rất đơn giản: chương trình thực tập rất tốt, nổi tiếng, dễ dàng tìm việc làm sau khi rời quân đội, cả gia đình được hưởng quyền lợi, và nhất là chỉ phải “đội mũ lính và mang lon” có 3 năm. Sau đó, nếu muốn, có thể xin giải ngũ. Đã có hơn một trăm đơn xin vào chương trình này, nhưng cuối cùng chị nằm trong số 10 người được chọn. Chị khiêm nhường cho là may mắn, nhưng tất nhiên điều quyết định vẫn là do khả năng, kết quả bao năm kiên nhẫn học hành của chị.
Chị Phạm Phan Lang bắt đầu binh nghiệp bằng cấp bậc Thiếu Úy. Hai tháng đầu tiên được thực tập quân sự tại quân trường Fort Sam Houston (FSH), San Antonio, Texas. Vì là ngành Quân Y, nên những thực tập quân sự rất nhẹ so với những binh chủng khác. Tuy nhiên, chị cũng phải tập bắn các loại súng, trèo đồi, lội suối, tập trận, hành quân, đọc bản đồ, sử dụng địa bàn một mình giữa rừng sâu.
Sau một năm thực tập Dinh Dưỡng tại Brooks Army Medical Center (BAMC), FSH, San Antonio, TX, chị tốt ngiệp, được thăng cấp Trung Úy và nhận nhiệm sở đầu tiên tại Moncrief Army Medical Activity, Fort Jackson, Columbia, SC. Và cũng tại đây một biến cố lớn đã xảy ra mang đến điều bất hạnh lớn lao nhất cho cuộc đời của chị sau này…Columbia là thủ phủ của Tiểu Bang South Carolina, có khoảng 300-400 người Việt định cư lúc bấy giờ. Thời ấy người Việt sống rải rác trong thành phố Columbia và các thành phố phụ cận như Greenville, Charleston, Myrtle Beach, Charlotte, Atlanta… Mọi người đều cố gắng làm việc để hội nhập và thích nghi với đời sống mới, nên chẳng ai quen biết, tiếp xúc nhiều với ai. Vợ chồng anh chị Phạm văn Diên & Phạm Phan Lang đã cùng một số thân hữu tích cực vận động thành lập Hội Ái Hữu Người Việt đầu tiên ở Columbia, mở trường dạy Việt Ngữ, tổ chức những ngày lễ hội truyền thống như Giỗ Tổ Hùng Vương, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán v.v.., gây quỹ cứu trợ thuyền nhân, tranh đấu cho nhân quyền, tự do ở Việt Nam. Cựu Thiếu Tá Diên hoạt động rất hăng say (chị Phạm Phan Lang chỉ hỗ trợ tích cực sau lưng, vì Quân Đội Hoa Kỳ không cho phép quân nhân tham gia vào bất cứ hoạt động chính trị nào). Phu quân của chị, anh Diên, đi khắp các thành phố lân cận, giao kết bằng hữu, giúp thành lập các Hội Ái Hữu địa phương, nêu cao tinh thần chống Cộng…
Biến Cố Lớn Trong Đời
Hôm đó là ngày lễ Độc Lập Hoa Kỳ, July 4, 1985. Lúc này chị Phạm Phan Lang đang ở trong Quân Đội Hoa Kỳ được gần 5 năm và mang cấp bậc Đại Úy. Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển về lại BAMC, FSH, TX, chị dự định đây sẽ là nhiệm sở cuối cùng của chị. Sau khi chấm dứt quân vụ ở nhiệm sở này, chị sẽ xin giải ngũ. Mấy ngày trước Lễ July 4, gia đình anh chị rất bận rộn tham dự tiệc tùng do các bạn hữu ở Columbia và các thành phố lân cận tổ chức tiễn đưa, hơn nữa chị đang trong thời kỳ học thi tốt ngiệp Thạc sĩ (Master Degree), nên chị khá mệt mỏi. Nhưng vì nể lời mời của một người bạn, cựu Trung Tá HQ ở Charleston, SC, vợ chồng anh chị nhận lời tham dự một buổi tiệc picnic ở bờ biển Foley Beach, SC. Chỗ này cách Columbia, nơi gia đình anh chị ở, khoảng 3 giờ đồng hồ lái xe. Cùng với gia đình anh chị 5 người, còn có 4 gia đình khác. Tổng cộng có 5 cặp vợ chồng và 13 đứa trẻ con, tuổi từ 9-15. Lúc ấy trời còn sớm, khoảng 8 giờ sáng, trên biển không một bóng người, ngoại trừ họ. Và tại nơi đây tại nạn đã xảy ra.
Mười ba đứa trẻ con vừa thấy biển đã nao nức chạy ùa ra bơi lội. Nước bên bờ biển lúc ấy mới cao bằng đầu gối. Các ông bố cũng vội vàng theo mấy đứa nhỏ, vừa để trông chừng vừa sửa soạn mắc mồi câu cua. Đàn bà thì lê mê khiêng thức ăn, nước uống từ trên xe xuống. Bỗng có tiếng kêu cấp cứu từ biển vọng vào, chị hoảng hốt nhìn ra, thì hỡi ôi, 13 đứa trẻ đã bị sóng ngầm (undertow) cuốn ra xa, và mấy ông bố đang vội vàng bơi ra để cứu con. Chị Lang không biết bơi, nên vội vã chạy ngược vào bờ một quãng khá dài, kêu cứu. Nhưng trời còn sớm quá, và khu này vì nổi tiếng nguy hiểm sóng ngầm (sau này mọi người mới biết) nên chẳng có ai ra biển. Kêu cứu một lúc không được, chị vội chạy trở lại biển. Lúc ấy một vài đứa trẻ lớn tuổi hơn đã bơi vào hoặc được mấy ông bố đưa vào bờ. Đang lúc dáo dác tìm kiếm mấy đứa con, chị thấy một người đàn bà Mỹ, không biết ra biển lúc nào, đang hì hục kéo anh Diên, chồng chị, lên bờ. Hai mắt anh nhắm chặt, mặt tái nhợt, môi tím ngắt và dường như không còn thở nữa. Dù kinh hoàng, đớn đau và sợ hãi, nhưng với những kinh nghiệm và bình tĩnh của một người lính, chị đã cố gắng làm hô hấp nhân tạo cho anh, được một người bạn bác sĩ trong nhóm phụ giúp, nhưng phu quân của chị vẫn không hồi tỉnh. Khi đưa vào bệnh viện Charlerston, vị bác sĩ cấp cứu, sau khi khám và thử nghiệm EEG (electroencephalogram), đã buồn bã cho chị biết: “Ông nhà đã bị chìm xuống biển khá lâu, trên 10 phút, nên não bộ không còn làm việc nữa (irreversible brain damage), xin chị đừng nuôi hy vọng”.
Một tháng sau, anh Diên đã trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viên quân sự nơi chị làm việc ở Fort Jackson, SC. Anh ra đi để cho đứa con gái út, lúc ấy 11 tuổi, và hai đứa bé nữa, 9 và 12 tuổi, được sống. Nếu chỉ muốn cứu một mình đứa con gái của mình, anh đã có thể làm được, nhưng anh không nỡ lòng bỏ cả bốn đứa bé đang cố bám víu vào nhau để khỏi bị sóng đánh trôi đi. Anh đã cố cầm cự đưa bốn đứa bé vào gần bờ, nhưng bị các em ôm chặt lấy anh, vì uống nước quá nhiều và sợ hãi đến cùng cực, không chịu buông tay chân anh ra. Cuối cùng, không chống chọi được, anh từ từ chìm xuống lòng biển trước đôi mắt đớn đau kinh hoàng của đứa con gái. Và vì không còn chỗ để bám víu, nên một đứa bé gái khác, 11 tuổi, bị sóng biển đánh dạt ra xa, mãi đến mấy tiếng đồng hồ sau mới tìm thấy xác.
Báo chí đã ca tụng, mọi người đều ngậm ngùi ngưỡng mộ anh như một anh hùng. Thượng Nghị Sĩ South Carolina lúc bấy giờ, ông Strom Thurmond, đã ban bằng tưởng thưởng. Nhưng tất cả những thứ ấy đều vô nghĩa đối với chị Lang, bởi chị đã mất vĩnh viễn người chồng yêu quí của chị, ba đứa con trong tuổi dại khờ của chị đã không còn người cha thương yêu gương mẫu. Không có điều gì có thể thay thế được.
Một khúc quanh trong binh nghiệp:
Chị đã xin hủy bỏ Lệnh Thuyên Chuyển về Texas và xin ở lại Fort Jackson thêm một năm nữa để có thể sớm hôm lui tới mộ chồng. Trong quân đội Hoa Kỳ, kể cả ngành Quân Y, thông thường thì cứ mỗi 3 năm, một Sĩ Quan được chuyển đến nhiệm sở mới. Chị được ở lại Fort Jackson đến 5 năm. Đây cũng là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt khác. Chị cũng bỏ ý định giã từ quân ngũ. Vì bây giờ, quân đội là nhà của chị, đã che chở và cưu mang chị, cho chị phương tiện tài chánh để nuôi các con ăn học nên người. Quân đội cũng đã rèn luyện chị trở thành một người có can đảm và nghị lực hơn để chống chọi với bao nhiêu thử thách của cuộc đời mà chị vừa mới trải qua cũng như đang chờ trước mặt.
Thời gian thấm thoát trôi qua, chị đã phục vụ trong ngành Quân Y Lục Quân Hoa Kỳ được 22 năm. Trong khoảng thời gian này chị đã thay đổi nhiệm sở 7 lần. Ngoài Fort Sam Houston, TX, và Fort Jackson, SC, chị đã đổi về các bệnh viện ở Fort Gordon,GA; Fort Huachuca,AZ; Fort Ord,CA; Madigan Army Medical Center, WA; Landstuhl Regional Medical Command, Germany; và cuối cùng là Tripler Army Medical Center ở Hawaii. Tại đây, công việc của chị là điều hành Phân Khoa Dinh Dưỡng (Director, Nutrition Care Division) với trên 100 nhân viên dưới quyền, vừa sĩ quan, hạ sĩ quan và dân sự. Ngoài ra, chị còn có nhiệm vụ Cố Vấn và Giám Sát những phần hành Dinh Dưỡng trong các đơn vị Lục Quân trú đóng ở Thái Bình Dương, đặc biệt là Nhật Bản và Nam Hàn ( Nutrition Consultant, Pacific Region). Và cũng ở nhiệm sở này, năm 2002, chị Phạm Phan Lang nhận được Thông Báo sẽ thăng cấp Đại Tá. Thông thường thời gian từ lúc nhận Thông Báo đến lúc được thực sự “gắn lon” cho cấp bậc Đại tá trong ngành Quân Y là khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Đến lúc ấy chị đã làm việc tại nhiệm sở Hawaii được 3 năm, nên đã đến lúc phải thuyên chuyển đến một nhiệm sở mới, mà chị biết sẽ là Hoa Thịnh Đốn.
Trung tá Phạm Phan Lang không muốn phải về Hoa Thịnh Đốn, cũng chẳng muốn rời khỏi Hawaii. Bởi ở Hawaii có cây xoài, cây mít, cây mảng cầu, khế, ổi, nhãn lồng… Hawaii cũng có những hàng dừa xanh, biển ấm quanh năm và cư dân rất hiền hòa, hiếu khách. Hawaii đã cho chị sống lại với những hình ảnh yêu dấu của Nha Trang, nơi chôn nhau cắt rốn, cũng là nơi chị đã gặp, yêu và làm vợ người lính biển lãng mạn nhưng can đảm hào hùng Phạm văn Diên. Cuối cùng chị đã không chọn cấp bậc đại tá, mà chọn Hawaii với biển ấm tình nồng, mang bóng dáng của miền quê hương thùy dương cát trắng của chị..
Những Chuyện Bên Lề về Tuổi Thơ, Tình Yêu và Cuộc Đời
của Cô Nữ Sinh Trường Nữ Trung Học và Võ Tánh Nha Trang.
Phan Thị Lang chào đời vào một buổi sáng mùa thu năm 1950 tại thành phố Nha Trang. Cha mẹ và đặc biệt là bà nội rất đỗi vui mừng, vì đây là đứa con gái đầu tiên của gia đình và cũng là đứa cháu gái đầu tiên của giòng tộc họ Phan. Cha mẹ muốn đặt tên cho con gái mình là Linh Lan, tên một loài hoa mà ông bà rất thích, nhưng bà nội không chịu, vì bà tin rằng, đặt tên cho con gái bằng tên một loài hoa là không tốt, vì hoa sẽ “sớm nở tối tàn”, cho nên bà nội bắt phải đổi tên Linh Lan thành Lang, để biến nghĩa thành cũ khoai… lang. Như vậy đời cô cháu gái sẽ tốt hơn.
Cha mẹ Lang sinh tất cả là 7 người con, nhưng mấy ông anh đầu đã mất đi trong chiến tranh loạn lạc, sau cùng chỉ còn lại ba anh em, người anh là Phan Ngọc Châu, cựu học sinh Võ Tánh (1B2/VT 63-64), rất chăm chỉ và học giỏi, sau này vào trường Võ Khoa Thủ Đức và tử trận năm 1968 tại Bình Dương. Anh Phan Ngọc Châu có một chuyện tình thật buồn với một người đẹp ở trường Nữ Trung Học, quê cũng ở Vạn Giã, Hai người không lấy nhau được do một trắc trở về chuyện họ hàng. Anh Châu sống những ngày u buồn và khi chết đi đã mang theo mối u tình này xuống lòng huyệt mộ. Người em trai, Phan Hà, sau khi học xong ở Võ Tánh, theo vợ chồng Lang vào Sài gòn học luật, rồi cùng di tản sang Mỹ vào đêm 29.4.1975. Hiện Hà đang sống ở Columbia, SC.
Ba má Lang là người Vạn Giã. vào Nha Trang làm ăn sinh sống từ thuở thiếu thời, nối nghiệp xây cất của ông nội, rồi làm nghề thầu khoán. Sau này ông trở thành nhà thầu nổi tiếng ở Nha Trang, từng xây nhà cho các tướng Đỗ Mậu, Tôn Thất Đính, và nhiều ngôi biệt thự sang trọng khác trên đường Biệt Thự, Duy Tân.
Cô bé Lang lớn lên trong sự cưng chiều của cả gia đình, nhất là bà nội, nên cô bé rất “hư”, nhõng nhẽo và lười học.Trong nhà, cô bé chỉ sợ có mỗi anh Châu, vì lúc nào anh ấy cũng trầm tĩnh, nghiêm nghị, ít nói và rất chăm học. Cô bé thường cố tình lẫn tránh, vì hễ mỗi lần bắt gặp cô em gái, là anh bắt phải học, một điều mà lúc còn ở tiểu học, cô bé thấy như là một cực hình.
Vì lười học, nên năm lớp Nhì ở trường tiểu học Sinh Trung, cô bé bị ở lại lớp. Cả một năm ở lại lớp Nhì ấy, cô bé thật ê chề và xấu hổ. Vì hễ có một đứa học trò nào lười biếng là cô giáo lại đem Lang ra làm ví dụ. Nhờ vậy mà từ đó, Lang quyết tâm học cho giỏi. Mùa hè đến, Lang theo anh Châu về quê nội ở Vạn Giã, để được ông anh dạy kèm cùng với mấy đứa con ông chú, bà cô, đặc biệt các môn toán đố, hình học..
Sau hè, trở lại trường, Lang được lên lớp Nhất. Và suốt cả năm lớp Nhất, tháng nào Lang cũng được lãnh Bảng Danh Dự, và cuối năm khi thi vào lớp Đệ Thất trường Nữ Trung Học, cô bé đậu hạng thứ 10 trong số rất đông thí sinh ở Nha Trang và từ các nơi khác về dự thí. Lang vào Đệ Thất năm 12 tuổi. Lên Đệ Tam chọn Ban C. Năm 1968, Lang đỗ Tú Tài I hạng Bình Thứ. Anh Châu từ chiến trường xa xôi, nghe tin, vội vã xin phép về thăm gia đình và chúc mừng cô em gái. Không ngờ đó lại là lần cuối cùng hai anh em nhìn thấy mặt nhau. Anh Châu đã tử trận đúng một tuần sau khi trở về đơn vị. Năm Đệ Nhất C, Lang phải chuyển sang học bên trường Võ Tánh, vì trường Nữ Trung Học không đủ lớp. Sau khi đậu Tú Tài II năm 1969, Lang là người đầu tiên trong đám bạn bè cùng lớp “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Anh Châu, người anh duy nhất và rất thương mến Lang, không còn nữa để dự đám cưới của em mình. Đó là sự mất mát và hụt hẫng to lớn của Lang trong ngày bước theo chồng.
Lang gặp anh Diên, Phạm văn Diên, lần đầu tiên vào ngày mồng 6 Tết Âm Lịch, lúc Lang chỉ mới tròn 13 tuổi, đang học lớp Đệ Lục. Hôm đó là ngày Thứ Bảy, nên phố xá đầy dẫy những anh chàng SVSQ Hải Quân và Không Quân. Không hiểu sao lúc ấy Lang “không ưa” Hải Quân, nên khi bị hai anh chàng HQ đi kèm hai bên Lang và một cô bạn, trong lúc dạo phố mua hàng, tán tỉnh, Lang vừa sợ vừa mắc cỡ, vừa ghét nữa, nên không mở miệng nói một lời. Anh Diên đi bên cạnh, biết Lang sợ và e thẹn, nên ôn tồn nhỏ nhẹ gợi chuyện. Anh Diên nói tiếng Bắc, gọi Lang bằng “bé”. Theo Lang về gần đến nhà cô bạn cùng đi, cũng là một tiệm ăn, Diên đã hỏi Lang: “Bé ơi, đường nào ra biển, hở bé”. Nghe hỏi, Lang bỗng phì cười. Hải Quân mà hỏi đường nào ra biển. Nào ai có biết, đó lại là câu nói định mệnh của đời Diên sau này.
Kể từ hôm ấy, cứ mỗi lần “đi bờ” là anh Diên đến ngồi ở quán của cô bạn, chờ bé Lang đạp xe đi qua. Vì quán ăn nằm ngay góc đường đến nhà Lang. Cứ như thế cho mãi đến năm 1965, anh Diên tốt nghiệp Khóa 14 HQ/ Đệ Nhị Kim Ngưu. Một hôm, Diên ngỏ ý xin phép Lang được đến nhà thăm ba má và ông anh, làm cô bé Lang hoảng sợ đến muốn khóc, lắc đầu lia lịa, vì nghĩ tới sự nghiêm khắc của cha mẹ, đặc biệt là anh Châu của mình, nên bảo là “Anh mà tới nhà, chắc thế nào Lang cũng bị đòn, không được đâu!” Nghe nói thế, Diên chỉ âu yếm nhìn Lang mỉm cười và bảo là “bé đừng sợ”. Cuối tuần sau, Diên đến nhà thật, gặp ba má và anh Châu của Lang. Và chẳng biết làm thế nào mà Diên thuyết phục được ông anh khó tính của Lang, để được “chính thức” tới thăm gia đình Lang.
Dù vậy, Diên cũng chỉ dám tới nhà mỗi tháng một lần và cũng hiếm khi được ngồi riêng để nói chuyện với Lang. Hôm trước ngày tốt nghiệp ra trường, Diên đến thăm để từ giã gia đình Lang. Sau khi nói chuyện với ba má và anh Châu, Diên xin phép được lên lầu để từ giã Lang. Lúc ấy cô bé đang ngồi đan áo trên sân thượng, dưới giàn nho đầy quả chín. Lần đầu tiên, Diên nắm lấy tay Lang, nhìn thật sâu vào mắt Lang, dịu dàng nói “Bé ơi, anh rất yêu bé và muốn cưới bé làm vợ, nhưng bé hãy còn nhỏ quá, nên anh phải đợi cho bé lớn lên. Ngày mai anh đi rồi, không biết bao giờ mới về thăm bé được, nhưng anh sẽ viết cho Bé mỗi ngày một lá thư. Bé ráng đợi anh nghe!”. Nói xong, Diên cúi xuống, nhẹ nhàng hôn lên đôi bàn tay run rẩy và ướt đẫm nước mắt của Lang.
Và chàng đã giữ đúng lời hứa, mỗi ngày một lá thư gởi về cho Lang đều đặn, và chờ Lang lớn lên. Họ đã làm đám cưới vào mùa Thu 1969, sau khi Lang đỗ Tú Tài II. Lúc ấy Lang vừa 19 và Diên đã 27 tuổi đời. Hành trang về nhà chồng của Lang, ngoài một số áo quần, còn lại là một vali chứa đầy những lá thư của Diên.
Hơn mười năm, sau ngày cả nhà di tản sang Mỹ, anh Diên mất đi trong một tai nạn bi thảm, để lại cho Lang ba đứa con dại tuổi chỉ từ 11 đến 15. Lang đã chọn ở lại quân đội để có điều kiện lo lắng cho các con. Sau này cả ba cháu đều thành đạt. Cô gái út, ngày rời Việt Nam vừa đúng 1 năm 1 tháng tuổi. Năm 11 tuổi tận mắt chứng kiến cái chết đau đớn của cha mình. Sau này được vào Stanford University, một đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ, và được bầu làm Chủ Tịch Hội Sinh Viên Việt Nam của trường. Sau khi đậu bằng Thạc sĩ ngành Kinh Tế/Phát Triển Điều Luật Quốc Tế (Economics/International Policy Development) năm 1997, cháu lấy thêm bằng Thạc Sĩ Quản Trị Thương Mại (Master of Business Administration) ở University of California at Berkeley (Haas School of Business). Hiện nay là Senior Product Marketing Manager của Google.
Năm 2002, sau khi chu toàn trách nhiệm của một người mẹ với các con, một sĩ quan cao cấp đối với Quân Lực Hoa kỳ, đúng một ngày sau khi về hưu, Phạm Phan Lang làm đám cưới với người chồng mới. Anh là môt người Mỹ, lớn hơn Lang 7 tuổi. Là một người hiền lành, thật thà và độ lương. Trước kia là một Sĩ Quan Không Quân trong Quân Lực Hoa Kỳ. Rời quân ngũ, anh đi học lại và lấy bằng Ph.D rồi dạy tại trường University of Hawaii, và sau này đã làm việc cho US Navy/Submarine, Pearl Harbor Hawaii trong hơn 30 năm với chức vụ Oceanographer/ Technical Director cho đến ngày về hưu, cách đây hai năm.
Phạm Phan Lang cùng chồng đang sống những ngày tháng êm đềm ở thành phố Kaneohe trên hòn đảo Oahu / Hawaii thần tiên. Mỗi ngày, trong nắng ấm, nhìn biển trời, nghe sóng biển rì rào, Lang da diết nhớ về Nha Trang, về những ngày tuổi thơ cùng với gia đình, thầy bạn, và hồi tưởng về một quá khứ với biết bao thăng trầm biến đổi của quê hương, của gia đình và của cả một đời người.
(Ghi chú của người viết: Khi liên lạc với Phạm Phan Lang để viết bài này, bất ngờ người viết nhận ra Lang chính là cô em gái của Phan Ngọc Châu, người bạn thân cùng quê Vạn Giã, cùng lớp ở trường Văn Hóa Nha Trang, trong những năm đầu trung học. Cứ mỗi mùa hè, người viết lại gặp hai anh em, dắt díu nhau về thăm quê nội. Khi ấy Lang mới chỉ học lớp Nhì, nhưng đã là một cô bé rất thông minh và thật xinh xắn dễ thương)
Phạm Tín An Ninh
(viết theo lời tâm tình của Phạm Phan Lang)
nguồn: http://www.bietdongquan.com/
Chút thảnh thơi mỗi ngày:
Bà mẹ Việt Nam bạc phước
Xin đừng bêu đầu tôi trên đá biếc
Đừng bắt tôi làm anh hùng khi đã chết
Anh hùng nằm trong mộ lại hi sinh
Gần tròn 10 năm trước trên talawas tôi cũng đã viết về cụ bà Nguyễn Thị Thứ, khi bà cụ còn sống:
Tượng Mẹ VN Anh Hùng nhìn giống như bị chặt đầu bêu riếu!
Ngoc Nhi Nguyen (Danlambao) –
Có nhiều người than phiền là sao mình nhìn cái gì của CSVN làm mình cũng chê, toàn nhận xét tiêu cực không có tích cực, nhưng thực sự là như vậy, bất cứ công trình nào của CSVN mà đem ra phân tích đúng lý lẽ thì chỉ thấy vừa dỏm vừa dở, lại còn thối tha bốc mùi, nhưng lại tốn hàng trăm tỷ đồng tiền thuế của người dân nghèo!
Cái công trình “điêu khắc” đầu mẹ VNAH này là CSVN bắt chước tượng ở núi Rushmore của Mỹ (chửi người ta, nhất định đòi đánh cho người ta cút nhưng cái quỷ gì của người ta cũng thích, cũng ham, cũng bất chước!), nhưng CSVN vì không có trình độ, không có óc thẩm mỹ, lại chăm chăm chỉ nhằm rút ruột công trình, ăn cướp của dân nên tuy bắt chước cái hay của người nhưng lại biến nó thành cái thối tha, dỏm dở.
Hãy thử so sánh xem sao nhé:
Tượng của 4 người khai sáng ra nước Mỹ là George Washington, Thomas Jefferson, Theodore Roosevelt và Abraham Lincoln được đục đẽo vào trong khối đá thiên nhiên của núi Rushmore.
Thứ 1 vì đây là núi đá thiên nhiên có sẵn, chứ không phải chở đá từ nơi khác đến nên HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ, KHÔNG TỐN 1 CẮC CỦA DÂN về vấn đề nguyên liệu.
Thứ 2 vì đây là đá thiên nhiên, có độ chịu đựng mưa nắng gió cát rất cao, lại được tạc vào phía trước của núi, phía sau vẫn có 1 mảng núi che chắn, và có các khe rãnh được khơi đặc biệt để thông nước, nên chỉ cần bỏ công điêu khắc 1 lần là có thể tồn tại mãi với thời gian, KHÔNG TỐN TIỀN TU SỬA GÌ CẢ!
Thứ 3 các bức tượng được điêu khắc rất sống động. Tượng nào cặp mắt cũng mở to nhìn về phía trước, rất có thần, nhìn thấy uy nghi oai phong. Tượng 2 ông Washington và Lincoln ở phía trước thì được điêu khắc có bờ vai và cổ áo đàng hoàng, nên nhìn không giống như bị chặt đầu đem cắm lên đó.
Còn nhìn lại tượng Mẹ VNAH của CSVN thì sao?
Thứ 1 là tự nhiên chở 1 đống đá đến đó xây tượng, nên mới quá tốn kém, tốn đến 411 tỷ đồng tiền thuế xương máu của dân (sắp tới đây thuế giá xăng lại sắp tăng lên mức khủng!).
Thứ 2 là xây tượng đài chơ vơ giữa đồng trống, chỉ có mỗi cái đầu mẹ nhô ra, lại là đá nhân tạo, thi bảo đảm chỉ trong vòng 10 năm là mưa nắng gió cát sẽ xoi mòn cái đầu và cái mặt mẹ, sẽ không còn ra hình thù gì, và lúc đó sẽ lại TỐN TIỀN TRĂM TỈ ĐỂ TU SỬA! Mà 1 cái đầu nhô ra như vậy bị xoi mòn thì làm sao mà sửa? Chẳng lẽ chặt đi khắc cái đầu khác gắn vào?
Thứ 3 là điêu khắc quá tệ. Mẹ VNAH gì mà 2 mắt nhắm tịt, trán thì nhăn lại, mặt mày cau có như đang chịu đựng đau đớn khổ sở, nét mặt nhìn không uy nghi cũng chẳng hiền từ, ngược lại nhìn giống như mẹ bị chặt đầu đem cắm ra đó để bêu riếu vậy!!
Sau cùng là đảng CSVN khoe khoang đây là tượng điêu khắc lớn nhất Đông Nam Á gì gì đó, thật ra là ăn gian và láo toét!! Cái đầu mẹ VNAH chỉ có chút xíu, còn lại có to lớn chăng là cái đống đá bên dưới! Cái đống đá đó mà gọi là “tượng điêu khắc” thì cả đến con nít nó cũng cười cho vào mặt!!
Khổ thế đấy! Có muốn khen CSVN 1 câu cũng chả tìm được cái gì dù nhỏ xíu để mà khen!!
Xem phim Saving Private Ryan
Saving Private Ryan – Giải Cứu Binh Nhì Ryan
Một Thoáng Pleiku
Một Thoáng Pleiku
Phạm Tín An Ninh
Về ghé Sông Mao phá phách chơi,
Uống rượu tiêu sầu cùng gái điếm
Đốt tiền mua vội một ngày vui
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Ðã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
Nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó
dốc cũng vừa ta bước xuống vô biên
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
đồi như vương cây như vấn chân nàng
phố cũng xưa và tim thì đau nhói
quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn…”
Mời xem ảnh Lễ tưởng niệm oan hồn trên tỉnh lộ 7 do Hội Phố Núi Pleiku tổ chức
53 photos in this album
View or comment on Lang Pham’s album » |
Nói ngược nói xuôi
NÓI NGƯỢC NÓI XUÔI
Học ăn học nói
CHÚC SỨC KHOẺ.
nguồn: hphivo
Người tỵ nạn và Việt kiều
Người Tị Nạn và Việt Kiều
GS Lâm Văn Bé:
Sau năm 1975, người Việt Nam bỏ nước ra đi tị nạn đã bị Cộng Sản gọi bằng những danh từ khác nhau. Những danh từ nầy mang những hậu ý chính trị gian xảo, do đó việc tìm hiểu ý nghĩa chính xác những danh từ nầy thật cần thiết để chúng ta sử dụng chính xác trong từng trường hợp .
Người tị nạn.
Khi vào cưỡng chiếm đất miền Nam, cưỡng đoạt tài sản dân miền Nam, Cộng Sản đã gọi tất cả dân miền Nam là bọn Mỹ Ngụy. Đối với người dân có cơ may vượt thoát được bằng những cuộc vựơt biển, vượt biên để xin tị nạn ở các xứ tự do, cộng sản dùng nhiều danh từ thô tục để điểm mặt người tị nạn.
Trước tiên, trong một hội nghị với các cán bộ tại Hà nội năm 1975, Trần Phương, Chủ nhiệm Ủy Ban Khoa học Xã hội đã ví von một cách tục tĩu dân miền Nam là những con điếm cho Mỹ làm tình để đổi lấy viện trợ. Cùng trong tư tưởng dâm ô ấy, Lê Duẩn mạt sát những người di tản là một bọn ma-cô, đĩ điếm, Phạm văn Đồng chửi người ra đi là bọn phản quốc, và các nhà báo nhà văn cộng sản, kể cả bọn cộng sản 30 cũng chửi hùa theo là những đồ rác rưởi trôi dạt khắp năm châu bốn bể. cặn bả xã hội, trây lười lao động, chạy theo bơ thừa sửa cặn » . Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế còn hằn học hơn khi tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn năm 1993 tại Amsterdam : Những người di tản đáng bị chặt đầu.
Nhưng chẳng bao lâu, Cộng Sản hiện nguyên hình là bọn gian manh. Năm 1990, khi Cộng Sản bắt đầu nhận tiền của người tị nạn gởi về, bọn đĩ điếm được cộng sản « nâng cấp» lên là Việt kiều, và ân tình hơn, Đỗ Mười tuyên bốViệt Kiều là những khúc ruột ở bên ngoài ngàn dặm của dân tộc.
Tưởng cần hiểu từ nguyên chữ Việt kiều để thấy rõ thâm ý của Cộng Sản. «Kiều» chữ Hán có nghĩa là ở nhờ, ở làng khác hay nước khác được dùng làm tỉnh từ cho những danh từ như «kiều dân» là người sống ở ngoài lãnh thổ mà người đó đã được sinh ra, «kiều bào» là đồng bào ở nước ngoài. Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, người Hoa sống ở VN được gọi là Hoa Kiều và chế độ Hà Nội gọi những người Việt sống ở nước ngoài và ủng hộ họ là «Việt kiều yêu nước».
Người Việt bỏ xứ ra đi tị nạn không phải là Việt kiều, kiều bào, vì những người nầy đã không chấp nhận chế độ Cộng Sản, đã sinh cơ lập nghiệp vĩnh viễn trên một quốc gia khác, đã có quốc tịch của một quốc gia khác. Gọi người tị nạn là Việt kiều, Cộng Sản có gian ý là muốn «tóm thâu» cái khối chất xám nầy là «con dân» của họ, còn đặt dưới quyền sinh sát của họ. Nghị định số 78/2009/NĐ ngày 22/09/2009 về luật quốc tịch xác định rõ quan niệm nầy, theo đó bao giờ người mang quốc tịch VN chưa được chính phủ VN cho phéptừ bỏ quốc tịch, người ấy vẫn còn quốc tịch VN dù rằng người ấy đã có quốc tịch Mỹ, Canada, Úc…Càng lộng ngôn và ngang ngược hơn, với con cháu của người Việt tị nạn, dù sinh ra và lớn lên tại các quốc gia của ông cha họ đã định cư, cộng sản cũng xem những người nầy vẫn có quốc tịch Việt Nam nếu chưa phép làm đơn xin bỏ quốc tịch và chưa được chính phủ VN chấp thuận.
Về điểm nầy, chúng ta thấy rõ chánh sách trơ tráo, đánh lận con đen của Cộng Sản. Theo điều 13, khoản 2, Luật Quốc tịch sửa đổi năm 2008 , «Người VN định cư ở nước ngoài vẫn có quốc tịch VN. Sau 5 năm từ khi luật nầy có hiệu lực, kiều bào phải đến cơ quan đại diện của chính phủ VN tại nước ngoài để đăng ký xin giữ quốc tịch, nếu không, sau ngày 1/7/2014 sẽ mất quốc tịch»
Sau 5 năm, chỉ có khoảng 6000 người ghi tên xin giữ quốc tịch. Trái với dự tính vì số người xin giữ quốc tịch quá ít, tháng 7/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký luật gia hạn cho người muốn giữ quốc tịch thêm 5 năm nữa, tức là sẽ chấm dứt ngày 1/7/2019.
Ngôn từ Cộng Sản thật lươn lẹo, lật lọng. Cho đến ngày 1/7/2019, người Việt ở hải ngoại mặc nhiên vẫn còn quốc tịch VN, vẫn bị chi phối bởi Luật quốc tịch VN giải thích «rộng rãi» theo luật rừng. Chính bà Nguyễn Thị Bình, người lãnh tụ của Phong Trào Giải Phóng Miền Nam còn sống sót, đã ví von : Việt Nam có một rừng luật và áp dụng luật rừng.
Và cho đến đầu năm 2014, chính phủ VN vẫn còn khư khư giữ quan niệm cha chú nầy với người Việt tị nạn. Trong bài huấn từ của Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Cục Người Việt nước ngoài đã nhắn nhủ cho phái đoàn «Việt Kiều yêu nước» về quê ăn Tết, ông nhắc lại lời của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt 20 năm trước như sau : «Cộng đồng người Việt ra đi sau chiến tranh và định cư ở nước ngoài rất đặc thù, không giống các cộng đồng ngoại kiều khác. Những thuyền nhân ra đi đa số là vì mục tiêu kinh tế chứ không phải mục đích chính trị. Có bộ phận những người ra đi sau cuộc chiến tranh mang theo tư tưởng hận thù của những người thua trận và được tuyên truyền rất nhiều điều ghê sợ không có thực về chủ nghĩa cộng sản ... Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị đã khẳng định rõ chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước, coi cộng đồng người Việt nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của dân tộc Việt Nam, tức là những người máu mủ ruột thịt thực sự, không phân biệt đó là thành phần nào, đó là ai. (Xuân quê hương 2014 – danlambao 3/2/2014).
Đối với những Việt Kiều yêu nước, Cộng Sản muốn gọi tên gì thì cứ gọi và sai bảo điều gì thì cứ làm. Nhưng đối với người Việt tị nạn Cộng Sản, họ không phải là Việt kiều mà là người Mỹ, người Canadiens, người Pháp, người Úc, người Đức gốc Việt… Phải gọi chính danh như vậy và phải tôn trọng quyền chọn lựa của họ là không chấp nhận chế độ cộng sản.
Việt Kiều và Nghị Quyết 36.
Không người Việt tị nạn nào ngu xuẩn tự xưng mình là Việt kiều, nếu có, đó là những Việt kiều yêu nước. Tưởng cần biết qua lai lịch của những Việt kiều yêu nước nầy.
Đa số những Việt Kiều nầy là những sinh viên xuất ngoại du học từ thời Việt Nam Cộng Hòa nhờ học bổng của Plan Colombo hay các quốc gia Âu Mỹ. Từ cuối năm 1970, một số con em của những người có thế lực, nhà giàu cũng được xuất ngoại tự túc. Những sinh viên có học bổng sau khi hết học bổng không chịu về nước vì sợ đi quân dịch, nên tìm cách ở lại tại các quốc gia đã du học một cách bất hợp pháp. Phương thức thông thường là kết hôn với người dân sở tại để có quốc tịch, và để biện minh cho hành động hèn nhát, họ chạy theo các phong trào sinh viên phản chiến ở Pháp, Mỹ, Canada để chống chiến tranh Việt Nam mà theo họ là do Mỹ và chế độ quân phiệt miền Nam chủ động. Họ được cộng sản lợi dụng để tuyên truyền và được phong danh hiệu là Việt kiều yêu nước. Sau 1975, nhiều đám sinh viên phản chiến phản quốc nầy từ Nhựt, Âu châu, Mỹ chạy sang Canada xin tị nạn cùng lúc với thân nhân của họ vừa di tản đến. Họ trương cờ đỏ sao vàng ở những tụ điểm của họ, một số xin về nước để lấy uy với bạn bè, nhưng chính phủ cộng sản lạnh lùng với họ, có khi còn bắt họ bởi lẽ cộng sản dư biết những Việt kiều yêu nước nầy chỉ là bọn hèn, theo đóm ăn tàn.
Từ cuối thập niên 1990 xuất hiện thêm một số Việt kiều yêu nước già, nguyên gốc là HO, có học và vô học, vì không hội nhập được vào xã hội định cư nên đi đi về về Việt Nam để sống với tiền xã hội của quốc gia định cư, một số khác thất nghiệp muốn về VN để kiếm việc, làm ăn buôn bán. Để đạt được ý định, họ lập công với cộng sản bằng những mưu chước hèn hạ, phản bội lại đồng hương và đồng đội họ, xâm nhập vào các hội đoàn, cơ quan ngôn luận để quấy phá. Nghị Quyết 36 nhờ sự tiếp tay của những Việt Kiều trở cờ phản bội nầy.
Nhiều người Việt tị nạn không biết hay xem thường những tác hại của Nghị Quyết 36 viện lẽ không làm chính trị. Ban hành vào tháng 3 năm 2004, Nghị Quyết 36 nhằm mục đích chiêu dụ người Việt ở hải ngoại về nước và đem tài sản về nước để gọi là đầu tư, đồng thời tìm cách khống chế lực lượng người Việt ngoài nước. Nói chung, Nghị Quyết 36 có thể tóm lược trong 5 điểm :
– Giúp người tị nạn trong việc sinh sống
– Giúp người tị nạn đoàn kết lẫn nhau
-Thu góp tiền bạc và chất xám
– Biện pháp đối với các thành phần chống lại chánh phủ và Đảng ở hải ngoại
– Tổ chức văn hóa vận và tình báo ở hải ngoại
Nhận định từng điểm, NQ 36 mang bản chất gian xảo, trịch thượng . Làm sao CS có khả năng và uy tín giúp người Việt hải ngoại trong cuộc sinh sống trong khi họ đã đẩy đa số người dân trong nước đến chổ bần cùng và mất cả đạo lý, và càng tệ hại hơn, họ xuất cảng tệ trạng ăn cắp tràn lan tại những nơi mà cán bộ của họ đi qua, làm xấu xa dân tộc. Tại Nhật, Mã Lai, Thụy Điễn, nhiều cửa hàng treo bảng hiệu : Cảnh cáo Ăn cắp vặt, No dogs, no Vietnamese.
Họ nói giúp người tị nạn đoàn kết với nhau, nhưng thực sự họ đưa công an và Việt kiều yêu nước xâm nhập các đoàn thể để gây đố kỵ, đánh phá nhau. Chuyện thu góp tài sản thì quá rõ, từ việc gởi tiền đến Việt kiều du lịch mang về nước tiêu xài cung cấp cho cộng sản 12% GDP, duy chỉ có chuyện thu góp chất xám là một cuộc thảm bại .
Một số tác hại của NQ 36 đã thấy rõ trong một số công tác chiến lược như sau :
– Trường dạy tiếng Việt và sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu nhi là lò huấn luyện, tuyên truyền
Tại những nơi có đông đảo người Việt, cán bộ cộng sản chủ động hay hợp tác với các đoàn thể, tư nhân mở trường dạy tiếng Việt, đưa sách báo từ VN sang, hay soạn sách theo quan điểm tuyên truyền cho cộng sản. Những buổi sinh hoạt tập thể là những cơ hội thuận lợi để cán bộ hay thầy cô thân cộng rỉ tai, hướng dẫn những măng non theo tư tưởng cộng sản. Tùy mức độ ảnh hưởng, chính sách văn hóa vận nầy tạo một tư tưởng chống đối của giới trẻ với ông cha trong công cuộc chống cộng.
Trong đại hội «Tổng kết 10 năm thực hiện NQ36 và công tác đối với người Việt nước ngoài » ngày 22 tháng 5, 2014, Thứ Trưởng Giáo Dục Trần Quang Huy đã có chỉ thị rõ rệt «…Cần sớm có quy chế về việc dạy tiếng Việt cho người Việt nước ngoài, đặc biệt thế hệ thứ ba, thứ tư để việc kết nối giao lưu được thuận lợi…»
– Xâm nhập các cơ quan truyền thông
Cộng Sản đã tung ra hàng triệu mỹ kim để thành lập, hùn vốn để mua chuộc các cơ sở truyền thông ở hải ngoại, bề mặt chửi bới Cộng Sản linh tinh, nhưng thỉnh thoảng gài vào những bản tin, bài viết vận động chính trị chiến lược có lợi cho cộng sản. Trong bản tổng kết Hội nghị Người Việt nước ngoài lần thứ haitừ ngày 27-29 tháng 09 năm 2012 ở TP Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã nói rõ chương trình hành động : «Tăng cường công tác thông tin đối ngoại , tăng cường đầu tư cho các chương trình dành cho người Việt ở nước ngoài như đài phát thanh, TV, báo chí, thông qua tổ chức các buổi giao lưu văn hóa, nghệ thuật, triễn lãm tranh ảnh về đất nước, các hoạt động từ thiện, du lịch, sinh hoạt khoa học, sinh hoạt các nhóm trong cộng đồng người Việt hải ngoại…»
Khuynh đảo, lừa gạt, xảo trá là sở trường của Cộng Sản. Chúng áp dụng kỹ chiến thuật tuyên truyền của Goebbels (Bộ Trưởng Thông tin Tuyên truyển của Đức Quốc Xã) : Nhắc đi nhắc lại hoài một sự việc không đúng sự thật, ban đầu người ta không tin, lần lần người ta bán tin bán nghi sau cùng người ta tin là sự thật. Internet và báo chí là những phương tiện hữu hiệu dể chúng bôi lọ những người quốc gia tranh đấu chân chính, làm yếu đi lực lượng chống cộng. để từ đó chúng đưa người của chúng vào các hội đoàn. Nhiều tổ chức tranh đấu chính trị đã bị chẻ làm đôi, làm ba và khi các cộng đồng hay tổ chức này bị chúng đánh cho yếu đi hay tan vỡ thì chúng dùng tiền để mua chuộc đám Việt kiều – Việt gian nhảy ra làm bình phong cho chúng hoạt động. Mặc dù chúng dùng mọi mưu chước nhưng cho đến nay, chúng vẫn không thành công lắm trong công tác vận động quần chúng ở Bắc Mỹ, Úc và vài quốc gia ở Tây Âu.
Nhưng Cộng Sản có hai bộ mặt chồng chéo nhau : dịu ngọt và bạo lực.
Tạp chí Cộng Sản gần đây đã viết : «…Tính đến nay, có hơn 100 tổ chức chính trị phản động người VN ở hải ngoại đang nuôi chí phục thù nhằm thực hiện ý đồ đen tối phục quốc. Cầm đầu các hội, các nhóm trên là những phần tử cực đoan, từng là ngụy quân ngụy quyền cũ, có nhiều nợ máu với cách mạng. Chúng đã, đang móc nối, cấu kết chặt chẻ với nhau và với bọn phản động trong nước để hoạt động chống phá cách mạng nước ta …» (TCCS. Phát huy vai trò của Cộng đồng http://tapchicongsan.orgvn ngày 28/05/2013)
Chánh sách vừa chiêu dụ vừa khủng bố của Cộng Sản đã có tác dụng phần nào trên các vùng đất có người Việt định cư ở Bắc Âu và Đông Âu, nơi có đông đảo người lao động xuát khẩu, di dân bất hợp pháp và du sinh. Trong thập niên qua, các tòa đại sứ hay lãnh sự Cộng sản đã nỗ lực thiết lập 13 cộng đồng người Việt theo chủ trương của NQ 36 : « … Nếu chúng ta phát huy cao độ các lợi thế của các lực lượng người Việt Nam ở nước ngoài để phân hóa, cô lập các lực lượng phản động thì chúng ta có thể hạn chế một cách hiệu quả, thiết thực các thế lực thù địch…». Mười ba cộng đồng cộng sản nầy là : 4 tại các quốc gia trước đây là cộng sản (Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga, Đông Đức), 4 tại các quốc gia có nhiều lao động xuất khẩu (Hàn Quốc, Đài Loan, Qatar, Angola), 5 tại các quốc gia ít có người tị nạn (Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Sĩ – ( chú thích : tại Thụy Sĩ còn có một cộng đồng chống Cộng của người Việt tị nạn). Các chủ tịch các cộng đồng nầy là người cộng sản, chỉ làm bù nhìn, việc điều khiển Cộng Đồng do sứ quán hay tòa lãnh sự đảm nhiệm theo quyết định Q12 năm 2008 (Mobiliser les Vietnamiens à l’étranger, p.50).
Ngày 18 tháng 8 , 2014, Trung ương đảng đã tổ chức một cuộc «mạn đàm» tại Praha (Tiệp Khắc) qui tụ những nhân vật cao cấp của Bộ Chính Trị từ trong nước và các đại sứ, đại diện 14 cộng đồng người Việt ở Đông Âu, Bắc Âu , kể cả Thụy Sĩ, Anh, Bỉ để «trao đổi công tác xây dựng tổ chức, vận động quần chúng, lôi cuốn giới trẻ tham gia và phát huy các sinh hoạt cộng đồng »
– Gởi sư quốc doanh ra hải ngoại lập chùa, tu viện
Chùa là nơi gia đình người Việt tị nạn gặp nhau để lễ Phật, niệm kinh, và còn là nơi sinh hoạt xã hội, văn hóa. Biết như vậy, Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy Ban Người Việt nước ngoài đã ký kết với Hòa Thượng Thích Thanh Tứ (Tứ chớ không phải Thích Thanh Từ) Phó Chủ tịch Hội Đồng Trị sự Giáo Hội Phật giáo VN ngày 16 /07/2009 một văn kiện nhằm « phối hợp cộng tác phât sự ở nước ngoài, mở rộng quan hệ, hoạt động của giáo hội sang các nước có đông kiều bào sinh sống ». Từ mươi năm nay, tại hải ngoại có nhiều chùa, tu viện được thành lập, mà sinh hoạt chùa không theo truyền thống tôn nghiêm của Phật pháp. Những ngôi chùa nầy tổ chức đại nhạc hội, du lịch, thi hoa hậu và nhiều sinh hoạt của đời thường. Một số thầy chùa, sư nữ gốc là công an, tác phong không phù hợp với người tu hành, làm người phật tử chân chính chán ngán. Ngôi chùa trở nên cơ sở kinh tài cho cá nhân và đảng, sư quốc doanh làm công tác báo cáo, tuyên truyền cho chế độ. Nghị Quyết 36 đã làm tổn hại rất nhiều đời sống tâm linh của người tị nạn.
Người Việt ở hải ngoại
Ngoài ra, chúng ta thường có thói quen gọi chúng ta thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại (diaspora) mà Cộng Sản gọi là người Việt nước ngoài. Nếu từ ngữ nầy đúng với tất cả các sắc tộc khác nhưng đối với người Việt, có khi không đúng hẳn bởi lẽ trong số người Việt hải ngoại lại có thêm những người không phải là người tị nạn. Đó là những người xuất khẩu lao động, di dân kinh tế hợp pháp và bất hợp pháp, các du học sinh thân cộng hay theo Cộng. Hiểu như vậy, sự chính xác của từ ngữ sử dụng cần phân biệt theo nội dung và hoàn cảnh.
Bảng 1- Tổng số người Việt tị nạn Cộng Sản ở hải ngoại
Quốc gia | Số người | Nguồn |
Hoa Kỳ | 1 548 450 | US Census 2010 |
Úc | 233 390 | Census Explorer 2011 |
Canada | 220 420 | Canada Census 2011 |
Pháp | 200 000 | Các nhà biên khảo ở Pháp |
Đức | 125 000 | Wikipedia và một số nguồn liệu |
Anh | 65 000 | UK Census 2011& phỏng định |
Tây/Bắc Âu | 100 000 | Các nguồn từ địa phương |
Tổng cộng | 2 492 260 |
Nguồn: Lâm Vĩnh Bình. Giá Tự Do
Bảng 2– Số người Việt xuất khẩu lao động, du sinh, định cư
hợp pháp và bất hợp pháp tại hải ngoại (Việt Kiều)
Đông Âu | Số người | Á Châu | Số người | |
Nga | 46 000 | Đài Loan | 180 000 | |
Tiệp Khắc | 50 000 | Hàn Quốc | 120 000 | |
Ba Lan | 20 000 | Mã Lai | 85 000 | |
UKraine | 10 000 | Trung Quốc | 30 000 | |
Slovakia | 5 000 | Nhựt | 38 000 | |
Áo | 5 000 | Cambốt | 600 000 | |
Hungary | 4 000 | Thái Lan | 100 000 | |
Azerbeijan | 10 000 | |||
Trung Đông | 10 000 | Lào | 20 000 | |
Angola | 40 000 | Bangladesh | 27 000 | |
Cộng | 200 000 | Cộng | 1 200 000 | |
Tổng cộng : 1 400 000 |
Nguồn :
– Người Việt ờ nước ngoài www.vietkieu.info;
– Wikipedia,
– Migration Policy Institute.
– World Facts Book
Bảng thống kê trên, tuy xuất xứ từ các cơ quan thẩm quyền nhưng chỉ là những con số ước lượng gồm có :
– 700 000 người Việt ở Cambốt, Thái Lan và Lào là người Việt đã sống lâu đời nhiều thế hệ tại các quốc gia nầy, đại đa số đã nhập tịch. Về người Việt ở Cambot, số thống kê chỉ là phỏng định vì quốc gia nầy không có thống kê. TheoWikipedia, và World Facts Book, người Cambốt gốc Việt chiếm 5% dân số tức khoảng 600 000 người. Bertrand Didier trong bài Vietnamiens au Cambodgevà Annuska Derks trong A picture of the Vietnamese in Cambodia trình bày chi tiết các giai đoạn di cư, định cư, diện mạo của người Việt ở Cambốt (có thể đọc online).
Migration Policy Institute thiết lập thống kê người di dân VN (immigrants) vào tháng 9 năm 2013 dựa vào ước lượng của United Nations Population Division công bố một con số thấp hơn chỉ gồm người di cư xuất khẩu lao động : Cambot : 37 000, Lào : 11 000, Thái Lan : 6000.
– 700 000 người ở Đài Loan, Hàn Quốc, Mã Lai, Nhựt, Trung Quốc, Đông Âu , Nga, Bangladesh, Trung Đông và Phi Châu. Dân số VN tại các quốc gia nầy thuộc nhiều diện khác nhau :
– một số là cư dân hợp pháp phần lớn là phụ nữ lấy chồng người Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai và những du học sinh tại các quốc gia Đông Âu, Nga, được nhập tịch tại các quốc gia nầy
– một số là người xuất khẩu lao động và cư dân bất hợp pháp.
– Người tị nạn Cộng sản : 2.500 000 người (số tròn) Bảng 1
– Người Việt di cư kinh tế, xuất khẩu lao động, du học sinh, định cư bất hợp pháp : 1 400 000 người Bảng 2
Tổng cộng số người Việt ở hải ngoại : 3 900 000 người.
Một cách dễ nhớ : 4 triệu người.
Nguồn : Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do
Về tổng số người Việt ở hải ngoại, thống kê của nhiều người viết, ngay cả những nhà nghiên cứu khoa bảng thường có khuynh hướng khuếch đại con số, bởi lẽ thay vì sử dụng thống kê chính thức của các quốc gia sở tại, họ lại sử dụng những thống kê của Cục Người Việt nước ngoài của Cộng Sản mà bản chất là gian dối, thiếu chính xác. Đan kể như luận án tiến sĩ : Mobiliser les Vietnamiens de l’étranger : enjeux, stratégies et effets d’un nationalisme transnational của Christophe Vigne do Institut de recherche sur l’Asie du Sud-Est contemporaine (IRASEC) xuất bản năm 2012 cho biết là người Việt ở hải ngoại là 4.3 triệu người trong đó người Việt ở Mỹ là 2.2 triệu (thay vì 1.5 triệu) và ở Canada là 250 000 (thay vì 220 000). «Le RSVN estime à environ 4.3 M le nombre de Vietnamiens résidents à l’étranger. La communauté vietnamienne des États-Unis est de loin la plus nombreuse avec 2.2M de personnes. Environ 250 000 Viet Kieu vivent au Canada, 120 000 en Allemagne et 60 000 en Russie…(p. 13).
Kết luận
Chúng tôi vừa phân tích hai từ ngữ người tị nạn và Việt kiều để phân biệt hoàn cảnh lúc ra đi và vị trí chính trị đối với chế độ cộng sản. Tuy nhiên, khi phải nhắc đến một từ ngữ khác có chữ kiều là kiều hối (mà cộng sản dùng thay cho danh từ ngoại tệ), cái biên giới giữa người tị nạn và Việt Kiều như không còn nữa bởi cả hai đều dùng kiều hối để nuôi dưỡng và củng cố chế độ trong nước.
Thật vậy, kể từ khi Clinton bắt tay với VN năm 1995, người Việt tị nạn về nước ào ạt vì đủ thứ lý do, thăm gia đình, du lịch, du hí… Thật là khó hiểu khi nhiều người đã ra đi tìm cái sống trong cái chết để vượt biển, vượt biên sau những ngày đói rách, khổ nhục hay bị lao tù, và trên đất mới, sau đó cũng không bao lâu, họ lại quay trở về để tiếp tục luồn cúi, nịnh bợ công an, cán bộ phường xã, những người trước đó không lâu là kẻ thù của họ. Vui thú, vinh quang gì ? Cứ mỗi lần Tết đến, có khoảng nửa triệu người về VN ăn Tết, mỗi người mang về VN để chi tiêu trung bình khoảng 4000 mỹ kim, như vậy Cộng sản có được dễ dàng ít nhất 2 tỷ mỹ kim kiều hối chỉ trong hai tháng. Ngoài ra, việc gởi tiền về VN triền miên từ 40 năm nay để nói là giúp đỡ thân nhân cũng là hiện tượng cần suy nghĩ, bởi lẽ chính số kiều hối khổng lồ nầy đã nuôi dưỡng, củng cố chế độ và duy trì một lớp thân nhân ỷ lại lười biếng, thỏa hiệp với công an để được dễ dàng trong cuộc sống. Dưới lăng kính nầy, người tị nạn có khác gì những Việt kiều yêu nước hay xuất khẩu lao động thân cộng ?
Theo Viện Nghiên cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương (Central Institute for Economic Management CIEM), « tính từ năm 1991 đến 2013, lượng kiều hốigởi về hơn 90 tỷ mỹ kim, là chiếc phao cứu tinh cho nhiều doanh nghiệp và là nguồn tài chính quan trọng cho quốc gia. Số tiền trên không kể đến 28% «kiều hối chui» không qua đường dây chính thức và những khoản tiền tiêu khi Việt kiều về thăm nhà. Chỉ năm 2013, số kiều hối gởi về là 11 tỷ. Mỹ là quốc gia chuyển kiều hối về VN nhiều nhất (57% trong tổng số kiều hối chính thức), kế đó là Úc (khoảng 9%), Canada (8%), Đức (6%), Pháp (4%) . Kiều hối là nguồn vốn thứ hai tại VN sau FDI (chú thích của người viết : Foreign Direct Investment là tiền ngoại quốc đem vào VN đầu tư) giúp tăng tiết kiệm, đầu tư, giảm nợ, cải tiến bảng xếp hạng tín nhiệm quốc gia, giúp ổn định tỉ giá, cán cân thanh toán và tăng dự trử ngoại hối . Tóm lại, kiều hối dùng để trả sinh hoạt hằng ngày, đầu tư vào sản xuất kinh doanh và trả nợ». (Cứu tinh của nền kinh tế VN /Alan Phan – ngày 18/12/2014.)
Thông tin trên phát xuất từ một cơ quan kinh tế chiến lược đầu não của cộng sản đã cho thấy không phải là nhóm Việt kiều Đông Âu, hay nói chung những Việt kiều thân Cộng đã gởi tiền về nước để nuôi chế độ mà chính đa số làngười tị nạn. Chỉ tại 5 quốc gia có đông đảo người tị nạn, đặc biệt là Hoa Kỳ, đã đóng góp hàng năm cho cộng sản VN 84% ngoại tệ. Có gì phi lý hơn, khi người Việt ở Mỹ, Úc, Canada, Pháp, Tây Đức là thành trì chống Việt Cộng, nhưng đồng thời cũng là đại ngân hàng tài trợ cho Việt Cộng. Giải quyết cái phi lý nầy phải là chuyện số một phải làm, tuy đã muộn màng lắm rồi, trước khi nói đến những chuyện tranh đấu khác.
Lâm Văn Bé
01/2015
Việt Nam: nỗ lực giữ quyền kiểm soát quá khứ
Việt Nam: nỗ lực giữ quyền kiểm soát quá khứ
Thomas Bass
♦ Chuyển ngữ: Ban Biên Tập
Nếu thật buồn em hãy về với biển
Nếu thật buồn em hãy về với biển
Đàm Huy Đông
(ảnh intternet)
Nếu thật buồn em hãy về với biển
Biển vẫn xanh rờn như thuở ấy vừa yêu
Giấu hết bão giông vào đáy lòng sâu thẳm
Biển yên bình, biển hát phiêu diêu
Nếu thật buồn em hãy về với biển
Về bãi cát xưa tìm dấu tích lâu đài
Em sẽ thấy cát dưới chân mằn mặn
Ngỡ chạm vào xưa cũ dấu chân ai
Nếu thật buồn em hãy về với biển
Viết ước mơ lên những vỏ sò
Và hãy viết tên em trên cát
Ở chỗ chúng mình đã viết ngày xưa
Nếu thật buồn em hãy về với biển
Sẽ gặp vầng trăng ngụp sóng phía xa mờ
Sẽ thấy bóng một người nôn nao thức
Sẽ thấy còn nguyên vẹn một giấc mơ
Viết cho những ngày xa anh
Đào Phong Lan
(ảnh intternet)
1.
Ngày mai khi chúng mình gặp lại
Có thể là em đã khác hôm nay …
Nhớ sáng nào trên biển
Chuồn chuồn bay
những cánh ướt vẫn thơm mùi sương sớm …
Bàn chân trần đi trên cát ấm
Tay cầm tay mà sao vẫn nhớ tay?
Những bình yên đến chạm vào vai
Ru em ngủ trong ánh ngày rực rỡ …
Em nằm yên trong tay anh, trong hơi thở …
Trong nắng trời,
Gió biển,
Cát bờ xa,
những con ong rừng lấy mật về qua
ngọt như môi anh hôn em mỗi sáng …
Dòng suối nóng chảy trong lòng đất nóng
âm ỉ hoài một nỗi niềm yêu
Khi ta đón nhau biêng biếc những chiều
Và lặng thầm chia tay nhau mỗi tối …
Em cứ nói chuyện không đầu không cuối
cứ huyên thuyên về cuộc sống con người
cứ mơ hoang ánh sáng bầu trời
Không biết là ánh đèn đường đã tắt …
Anh của em,
những ngày không gặp mặt
có buồn không?
Khuôn mặt có hao gầy?
Bàn tay em đã lại nhớ bàn tay
Môi em nhớ những cái hôn rất vội
Em lầm lụi đi trên con đường tối
Ngõ vắng xa
Hoa mướp đã thôi vàng
lối cỏ xanh hôm chúng mình sang
đã xơ xác nhớ một người đi vắng…
Không có anh,
Sao quá chừng phẳng lặng?
Quá chừng mưa trên những tán lá bàng
Quá chừng rơi những thảm hoa vàng
Quá chừng hát những bài lâu không hát …
Giá anh xa đúng một vòng quả đất
Thì bây giờ em sẽ đến ôm anh
Sẽ gục lên đôi vai ấm hiền lành
sẽ hôn siết bàn tay yêu dấu
2
Ngày mai khi chúng mình gặp lại
Có thể là em đã khác hôm nay
Nhớ lần đầu ta nắm bàn tay
Đã không muốn buông rời ra nữa…
Những ngôi nhà nhẹ nhàng khép cửa
Để ta hôn nhau những cái hôn đầu
Để ta hôn nhau những cái hôn sâu
Và trái đất quay một vòng choáng váng …
Anh của em,
thời gian và năm tháng
đã nhắc em phải biết mong chờ
nhưng em sợ em không tính bằng giờ
mà em níu lấy từng giây phút
Đời rộng quá, bàn tay em nhỏ hẹp
biết làm sao che chắn được cho nhau?
Anh đang làm gì?
Anh đang ở đâu?
Anh có biết là em đang nhớ?
Giá cuộc sống chỉ là cánh cửa
Em và anh sẽ khóa trái bên ngoài
mặc mưa gió và những cánh chuồn bay
mặc núi xô hay ầm ầm biển động
Em đã sống một đời ước vọng
những khát khao trời rộng sông dài
những ngông cuồng về một ngày mai
những to tát lớn lao dự định
Nhưng bây giờ em chẳng cần định mệnh
những rủi may
những cơ hội ngàn vàng.
Chỉ cần anh dừng bước lang thang
Về với em
Căn nhà em ngỏ cửa
Bàn tay này vì anh mà nhóm lửa
Hơ ấm anh những buổi đi về
Ngày ngắn vô cùng hay dài rộng lê thê
Em cũng sẽ không màng đến nữa …
Hãy để em yêu anh
Không do dự
Và hãy yêu em như giây phút cuối cùng
Như ngày mai sẽ xa nhau vĩnh viễn, lối đi chung
của hai đứa đã có người chắn mất…
Như đã đến giờ tận thế trên trái đất
Như dòng sông sẽ cạn muôn đời
Hãy siết em vào lòng
Hãy hôn mãi không thôi
Hãy yêu em không một lần ngưng nghỉ …
3
Ngày mai khi chúng mình gặp lại
Có thể là em sẽ khác hôm nay
Như ánh chiều rồi cũng phải nhạt phai
Như chiếc lá một ngày tàn úa
Đừng hỏi em
đừng hỏi em thêm nữa
Là vì sao em nói những câu này
Hãy lặng lẽ cầm lấy bàn tay
Ủ ấm em vì em đang rét lạnh
Anh của em,
Dáng đi khổ hạnh
Bàn tay gầy mười ngón khô khan
Đến hôm nay em vẫn thấy ngỡ ngàng
Sao chúng mình yêu nhau nhanh đến thế?
Như sóng cuốn
Như gió xô
Như thể …
Là chúng mình ngàn kiếp đợi chờ nhau …
Hãy yêu em ngày hôm nay thôi nhé
Đừng bao giờ nhớ đến hôm qua
Cũng đừng nên nghĩ đến ngày xa
Vì cuộc sống ngày mai sao biết được?
Hãy yêu nhau như là hai giọt nước
Lăn vào nhau những khát vọng nồng nàn
Hãy yêu nhau như hai chiếc lá vàng
Lìa cành vẫn còn ôm ấp mãi …
4
Ngày mai khi chúng mình gặp lại
Có thể là em đã khác hôm nay …
Đào Phong Lan
nguồn: https://thanhbinh84.wordpress.com
Chào Em, Sàigòn 40
Ảnh internet, thêm vào)