Vũ Thất

Bảo Bình 1

CÁO PHÓ của gia đình nhà văn Trần Hoài Thư

CÁO PHÓ

Chúng tôi ngậm ngùi báo tin cùng thân bằng quyến thuộc
Hiền nội và thân mẫu của chúng tôi là:

Bà NGUYỄN NGỌC YẾN
Sinh ngày 30 tháng 7 năm 1941 tại Cần Thơ
Sau 2 năm an dưỡng tại tư gia và 10 năm tại viện dưỡng lão
đã từ giã trần gian lúc 14 giờ 35 phút, ngày 27 tháng 4 năm 2024
(nhằm ngày 19 tháng Ba năm Giáp Thìn) tại Plainfield, New Jersey,
hưởng thọ 84 tuổi.

Linh cữu được quàn tại
Memorial Funeral Home
155 South Avenue
Fanwood, New Jersey 07023
(908) 322-4350

Tang gia đồng khấp báo:
Chồng: Trần Quí Sách, bút danh Trần Hoài Thư, Plainfield, New Jersey
Trưởng nam: Trần Quí Thoại, Vợ: Kim Tạ, và các con, thành phố Limerick, Pennsylvania

LỊCH TRÌNH TANG LỄ:
• Lễ Nhập Quan và Phát Tang: 10 tháng 5 năm 2024
• Thăm Viếng: 10:00 AM đến 11:00 AM, Thứ Sáu, 10 tháng 5 năm 2024
• Lễ Hỏa Táng: 11:30 AM, cùng ngày.

Cáo phó này thay thế thiệp tang.
Xin miễn phúng điếu

Di sản tội ác Việt cộng sau 30/4/75

Phát biểu của Đỗ Mười bí thư Trung ương Đảng Cộng sản khi chiếm miền Nam:

“Giải phóng miền Nam chúng ta có quyền tịch thu tài sản trưng dụng nhà cửa, hãng – xưởng, ruộng đất chúng nó , xe chúng nó ta đi, vợ chúng ta lấy, con chúng nó ta bắt làm nô lệ, còn chúng nó thì ta đày đi kinh tế mới và nơi rừng sâu nước độc, chúng nó sẽ chết lần mòn”.   

Chính sách của Bắc Cộng đối với dân miền Nam là thế đấy. Đời đời không quên…

Đọc thêm: ĐỖ MƯỜI – DI SẢN TỘI ÁC

Cảm Tạ Miền Nam 

Phan Huy

Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói 

Với Miền Nam, miền đất mới thân quen

Tôi đã vào một xứ sở thần tiên 

Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền 

Cơm áo no lành, con người hạnh phúc. 

Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục 

Mở mắt to nhìn nửa nước anh em 

Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền 

Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống. 

Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động 

Đất nước con người dân chủ tự do 

Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô 

Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt…

Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối 

Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng 

Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên 

Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc. 

Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng 

Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu 

Mà trước đây tôi có biết gì đâu 

Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ 

Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ 

Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng …Dù không thành công cũng đã thành danh.

SÁM HỐI!

Trần Đức Thạch

Mái đầu tôi mỗi ngày càng nhanh bạc.
Với câu hỏi đất nước sẽ về đâu?
Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu
Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến.
Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh.
Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình.
Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác.

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc.
Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lênin.
Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn.
Gieo thù hận trong lòng con cháu.

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu.
Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh.
Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành.
Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gặm nhấm.

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm.
Mất chính mình mang tội ác với tương lai.
Gần đất xa trời mới thấy được cái sai.
Không phải thơ mà những lời sám hối…

Xin ngàn lần triệu lần chịu tội.
Trước băn khoăn đất nước sẽ về đâu ???

nguồn: danchimviet.info

Vì sao Việt Nam là nước công an trị: Bộ Công an lớn đến cỡ nào?

Vì sao Việt Nam là nước công an trị: Bộ…

Tháng Tư Tướng chết theo thành

Đinh Quang Anh Thái | Tháng Tư Tướng ch…

Những bài hát hay về Tháng Tư Đen 1975

Những bài hát hay về Tháng Tư Đen 1975

Người Việt hải ngoại tưởng niệm 30/4

Đại Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương 2024

Hơn 30 năm qua, hàng năm, Hội Cao Niên Á Mỹ đều có tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương rất trang trọng. Mục đích là để nhắc nhở con dân Việt Nam luôn tưởng nhớ công đức cao dầy của vị quốc tổ đã tạo dựng nước Việt Nam có một dải sơn hà gấm vóc từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

https://www.oanh19.com/index.php/category/le-lac-hang-nam/gio-to-hung-vuong-2024

30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI

Trần Gia Phụng

Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.

Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.

1.- AI THẮNG AI?

Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa.

Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản.

Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc.

Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969.

Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ

Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3)

Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5)

Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.

Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.(7)

Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9)

Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc.

Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh.

2.- THỰC TẾ SAU 30-4

Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.)

Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa.

Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước.

Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11)

Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách.

Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.)

Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12)

Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991?

3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC

Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13)

So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14)

Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa.

Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống.

Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15)

Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16)

Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn.

4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trungcô lậpbắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam.

Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế…

Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18)

Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “”Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20)

Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay.

Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam.

Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc.

Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây:

· Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt.

· Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản.

· Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư…

· Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời.

Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt.

Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây.

Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21)

Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.” Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường.

TRẦN GIA PHỤNG (Toronto)

CHÚ THÍCH:

1. Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold L. Schester, The Palace File, Harper & Row, Publishers, New York, 1986, tr. 350. Nguyên văn: “North Vietnam will lose the war when it takes over Saigon.” [Sách The Palace File được các ông Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Ðàm chuyển dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Hồ sơ dinh Ðộc Lập, vơi một số những thay đổi do Nguyễn Tiến Hưng; Chu Xuân Viện nhuận sắc, Nxb. C & K Promotions, Inc., Los Angeles, không đề năm xuất bản. Trong sách nầy, câu nói của Moshe Dayan được trích dẫn ở trang 594.]

2. Nguyễn Ðình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 19.

3. Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334. Sách nầy được chọn là sách hay nhất về bang giao quốc tế của Câu lạc bộ Overseas Press, Hoa Kỳ.

4. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “that it might be worthwhile to sacrifice South Vietnam. Rather than squander more American lives and billions of dollars trying to prop up South Vietnam, with little chance of succeeding, why not accede to its failure in exchange for an opening to China, in order to weaken the real ennemy, the USSR?“.

5. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “So I came to the conclusion, and this may sound thoroughly cynical to you, that we would be better off not ro win this war. Particularly because the Chinese had made a breakthrough to us, and it was far more important to get the Chinese broken off from the Soviets and leaning to one side in our favor than for us to win in Vietnam.” [Bill Sullivam là một nhà ngoại giao kỳ cựu của Hoa Kỳ, đã từng làm đại sứ Hoa Kỳ tại Ai Lao, thứ trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, phụ tá và sát cánh cho đến phút chót với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam.]

6. John S. Bowman, tổng biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc từng ngày], Mallard Press, New York, 1989, tr. 190.

7. Roger Warner, sđd. tr. 333. Nguyên văn: “that losing the Vietnam War would be healthier for the U.S. than winning it. That losing was in the national interest. That it was a plus… It was a radical notion at the time, that by losing the war and by abandoning our Southeast Asian allies to their fate we would be doing the right thing.”

8. Lời của Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng Lao Ðộng Việt Nam. (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.)

9. Một ví dụ rõ rệt nhất trong lịch sử Việt Nam, là vào năm 1801, nhà Tây Sơn đem quân vây Quy Nhơn do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu của lực lượng Nguyễn Phúc Ánh trấn giữ. Theo kế hoạch của Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh chịu thua trận nầy, bỏ Quy Nhơn, tung quân ra đánh chiếm Phú Xuân, rồi ra Bắc hà dẹp nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước.

10. Ðạp đồng đài: tức xe đạp, đồng hồ, và radio transistor. (Lúc đó có nhiều từ ngữ rất lạ lùng về việc nầy: ví dụ đồng hồ không người lái tức đồng hồ tự động, đồng hồ có đèn tức đồng hồ dạ quang, đồng hồ có cửa sổ tức đồng hồ có khung ngày.)

11. Chuyện nầy do một cán bộ tên Phương, thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Hà Nội, được gởi vào Nam để nghiên cứu kế hoạch văn hóa, kể tại nhà của nhà văn Phan Du tại Ðà Nẵng vào thời điểm trên, người viết có mặt trong buổi nói chuyện nầy.

12. Một câu chuyện mà người viết nghe kể tại Sài Gòn trước năm 1980: Khi thủ tướng Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức), ông Erich Honecker (1912-1994), qua thăm Việt Nam, ghé Sài Gòn, lúc đó đã có tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Honecker đề nghị thuê các trí thức Sài Gòn sang làm việc tại Ðông Ðức, trả bằng ngoại tệ qua nhà cầm quyền cộng sản. Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM lúc đó là Võ Văn Kiệt đồng ý ngay vì nhà nước cộng sản rất cần ngoại tệ. Theo nhu cầu về chuyên viên của chính phủ Ðông Ðức, ông Võ Văn Kiệt lên danh sách các chuyên viên đã tốt nghiệp các trường đại học Ðông Âu, Liên Xô và Trung Cộng, nhưng Honecker lắc đầu từ chối, và tự mình đưa ra một danh sách nêu đích danh tên tuổi những chuyên viên khoa học kỹ thuật miền Nam đã tốt nghiệp tại miền Nam, cũng như ở Âu Mỹø còn ở lại miền Nam.

13. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 76-77.

14. Nguyễn Hiến Lê, Hồi kí tập III, Nxb. Văn Nghệ, California, 1988, tt. 17-18, 25.

15. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000. (tài liệu rút từ Internet, http//www.Imvntd.org/vndc0100/bai06.htm). Những chữ in đậm do người viết bài nầy muốn nhấn mạnh.

16. * Ngô Nhân Dụng, “Jane Fonda hối tiếc”, http://www.nguoi-viet.com/spcl/0622/binhluan.htm * Xin xem thêm về Jane Fonda: http://www.rjgeib.com/thoughts/fonda/fonda.html

17. Số người Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau năm 1975 chưa từng được cộng sản tiết lộ. Sau khi thăm dò nhiều người bị tù ở nhiều trại học tập tại các tỉnh khác nhau, người viết chỉ đưa ra con số ước chừng mà thôi. Nhiều người cho biết con số thật sự bị tù nhiều hơn, phải trên 1.000.000 người, vì chẳng những quân nhân, công chức, mà cán bộ xã ấp ở nông thôn, và cả phụ nữ nữa, cũng bị đi tù nhiều năm

18. Việt Mercury, San Jose, California, 9-3-2001, http://www.vietmercury.com/2001/week10/News/Story01.html)

(Nữ ca sĩ Phương Thanh, trả lời phỏng vấn của thông tín viên Ðức Hà)

19. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 303. Lời nói trên là của ông Vũ Ðình Huỳnh nói với con là nhà văn Vũ Thư Hiên năm 1986. Ông Vũ Ðình Huỳnh gia nhập đảng CS năm 1930, từng chứa chấp, nuôi ăn trong nhà tại Hà Nội những cán bộ cộng sản, kể cả ông Hồ Chí Minh. Ông Vũ Ðình Huỳnh còn là bí thư của ông Hồ, Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao cộng sản cho đến khi hưu trí năm 1964.

20. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 345.

21. Thành Tín, “Pháp du phiêu lưu ký”, Thông Luận.

nguồn: https://baovecovang2012.wordpress.com/2013/04/30/30-thang-4-thu-nhin-lai-tran-gia-phung/

Đêm Đình Chiến

Đêm Đình Chiến

Dinh không biết chính xác mỗi đêm, bắt đầu vào lúc nào, các loại côn trùng rủ nhau đồng loạt cất tiếng nhưng có điều anh chú ý đến âm điệu sầu thảm bi thương đó từ sau 10 giờ. Đó là thời điểm Dinh dỗ giấc ngủ khi không nhằm phiên canh gác. Ở hậu cứ, cũng vào giờ này, chừng mươi mười lăm phút là anh đã ngủ say nhưng đêm nào nằm bên bờ kinh Vĩnh Tế âm u hoang vắng tràn ngập tiếng rên rỉ nỉ non của các loài côn trùng anh không tài nào nhắm kín đôi mắt. Có một lần anh lấy bông gòn bịt chặt đôi tai đưa đến giấc ngủ ngon lành, bèn phổ biến kinh nghiệm đó cho Hân, bị Hân chửi là đứa ngu đần. Giữa vùng hành quân mà bịt kín hai tai thì có khác gì tự sát. Từ đó anh chịu khó nghe cái hợp âm chói tai đó cho đến bình minh.

Riêng ba đêm vừa qua, từ sau buổi gặp gỡ người yêu mà nàng gọi là lần gặp cuối cùng, những tiếng kêu đều đều thống thiết của chúng càng tác động mạnh khiến bao ý nghĩ bi quan đổ về tràn ngập. Anh thấy rõ là cuộc tình của anh với Hoàng đã hoàn toàn đến chỗ bế tắc, hoàn toàn đã đến hồi kết cuộc, mãi mãi chia tay. Hoàng cho biết đã năn nỉ ba mẹ hết lời nhưng ông bà cứ khăng khăng lắc đầu. Nàng muốn trốn đi với anh nhưng rồi nghĩ anh cứ đi hành quân hoài, nàng sợ phải bơ vơ…

Ba đêm qua, không đêm nào không có lúc anh muốn bật dậy, muốn nhảy khỏi giang đỉnh, một mình đi sâu vào vùng địch để cùng chết với vài tên địch. Thà thế còn hơn là cứ nằm im nghe con tim nhức nhối vỡ vụn.

Thế mà đêm nay anh lại hoàn toàn quên Hoàng. Đêm nay anh cũng không còn cái ước muốn đi vào vùng địch vì theo thuyền trưởng Hoạt, chắc chắn địch sẽ đến với anh. Hồi chạng vạng, “Thẩm quyền” đã ân cần nhắc nhở là phải hết sức đề cao cảnh giác. Theo tin tình báo, đêm nay nhất định địch sẽ vượt sông tiến chiếm xã Ba Chúc bằng mọi giá trước 8 giờ sáng mai. Đó là thời điểm lệnh ngưng bắn có hiệu lực và địch cần có ít đất ít dân để khoe với thế giới. Dinh ước ao là đêm nay địch xuất hiện thật đông để có dịp chơi xả láng, chơi thẳng tay một lần cuối, rồi có đền nợ nước cũng… sướng thân! Dinh tự đùa với mình: “Chúng mày muốn… sang sông thì phải bước qua xác bố mày!”

Từ 8 giờ tối, ngay sau khi cả giang đoàn vào vị trí phục kích, Dinh đã bắt đầu dỗ giấc ngủ để tỉnh táo nhận phiên trực từ nửa đêm và để có đủ sức đụng trận tới… ngưng bắn. Nhưng cái nôn nao lạ lùng lấn át mọi tạp âm rên rỉ và dù chưa tới phiên, anh cũng ôm khẩu M16 bò lại nằm kề bên Quốc đang thủ khẩu đại liên 50.

Hân cũng đã có mặt ôm khẩu tiểu liên nằm bên thuyền trưởng Hoạt. Ông đang nâng chiếc tinh quang kính ngang mắt. Đây là loại dụng cụ điện tử tối tân, nhìn xuyên qua bóng đêm. Chỉ cần ánh sao xa thẳm, nó biến vùng trời đen tối thành vùng ánh sáng ngà ngọc. Thuyền trưởng chầm chậm quét nửa vòng hết về bên phải rồi về bên trái. Từ hàng cây rõ nét ven bờ, các mảnh ruộng lúa ngăn chia bằng các con đê ngang dọc chạy dài chìm dần vào bóng tối. Dinh hỏi khẽ:
– Có động tịnh gì chăng, thuyền trưởng?
Hoạt lắc đầu, đặt tinh quang kính lên sàn, nhấc khẩu phóng lựu liên thanh M79:
– Có thể còn hơi sớm…

Bất kể thuyền trưởng khẳng định là tin tình báo khả tín là địch sẽ xâm nhập giành dân lấn đất cấp tiểu đoàn, Dinh vẫn cho rằng khả tín có nghĩa là không phải lúc nào cũng đúng. Phần nào an tâm, Dinh trườn đến bên Hân, thì thầm ý nghĩ lạc quan đó với người bạn tâm giao. Hân gằn giọng:
– Tao thì tin lũ chuột sẽ chường mặt. Đây là dịp cuối cùng chúng cố chiếm vài cái hang…
Dinh ngắt lời, kêu khẽ:
– Hân!
– Gì?
– Ơ hay, bữa nay sao mày ăn nói cộc cằn thế. Thường mày lịch sự lắm mà!
– Lịch sự cái củ kẹt! Sắp đụng trận lớn đến nơi mà cứ lải nhải chuyện yêu đương. Nàng Hoàng của mày có lý. Hãy quên nàng đi. Mày đã thấy vợ tao khổ cực trăm bề nuôi con…
Dinh vẫn kiên nhẫn:
– Hân à! Ngày mai ngưng bắn, mọi sự rồi đâu vào đấy!
– Chỉ mong thế. Còn mày, mày tìm người… thay thế chứ?
Giọng Dinh buồn buồn:
– Tao không biết. Nhưng nếu thật sự có ngưng bắn, chắc tao sẽ buồn chết được.
Hân rời cò súng, đưa tay xoa đầu bạn:
– Yên chí! Rồi mày sẽ chóng vui. Trai đang thiếu, gái đang thừa mà!
Dinh lắc đầu, thở dài:
– Thừa nhưng vẫn thiếu Hoàng của tao!
Hân rút tay về, lại đặt ngón tay vào cò súng, vừa nói vừa đăm đăm nhìn phía trước mũi:
– Ngưng bắn rồi, không biết họ có cho mình giải ngũ không? Tao chỉ muốn được giải ngũ để lo cho vợ con đầy đủ hơn.
Dinh ngẫm nghĩ rồi nói:
– Mày có nghề cơ khí, giải ngũ làm thợ sửa máy xe, máy tàu, hốt bạc! Còn tao, cái nghề trọng pháo chả biết làm gì. Chẳng lẽ làm nghề… giết mướn!
Hân cười khẽ:
– Làm cái nghề đó thất đức! Tao đề nghị mày xin nhập tịch Mỹ, qua Mỹ sửa súng cho mấy thằng cao bồi! Cũng… hốt bạc!
Dinh không cười nổi trước lời đùa của bạn, cất giọng buồn buồn:
– Tụi nó giờ toàn đi xe hơi, đâu còn ai làm cao bồi! Có lẽ tao nên tận dụng cái nghề của tao… lần cuối!
Hân quay sang bạn:
– Nghĩa là?
– Nghĩa là tao đặt nòng khẩu M16 này dưới cằm và bấm cò…
Hân kêu hốt hoảng:
– Nói bậy mày! Nếu có giải ngũ, tao mở tiệm sửa xe, mày phụ tá tao. Máy tàu thì rắc rối chứ máy xe gắn máy rất dễ ăn. Coi tao sửa vài chiếc là mày rành rẽ.

Dinh lặng thinh nhìn màn đêm âm u. Anh quan sát một lúc, bất chợt nhìn chăm chăm vào con đê hơi chếch về bên phải. Có vài dáng dấp lay động thật chậm ven mép đê, rất gần bờ. Anh nói nhỏ với thuyền trưởng Hoạt:
– Thuyền trưởng! Nhìn kỹ bên phải.
Hoạt nâng tinh quang kính, rồi nói:
– Có công ăn việc làm rồi!
Nói xong Hoạt chụp ống liên hợp:
– Tango đây Hotel, vài con chuột xuất hiện bên phải tôi, xin cho lệnh.
Hân lắng nghe tiếng thẩm quyền:
– Tất cả giữ thật yên lặng cho chúng vượt sông. Tập trung hỏa lực vào tiểu đoàn sắp xuất hiện. Sử dụng mọi loại súng, bắn tối đa khi có lệnh.
Thuyền trưởng Hoạt đáp khẽ:
– Nhận năm, thẩm quyền!

Hoạt hiểu ý của thẩm quyền. Theo kinh nghiệm, đây chỉ là toán dò đường. Khi họ qua sông trót lọt, cả tiểu đoàn mới cùng vượt sau. Anh thấy rõ chúng đang leo lên xuồng cao su rồi ra sức bơi thật nhanh. Anh nhìn về phía trước. Chừng mười phút sau, rất nhiều bóng dáng lố nhố xuất hiện thành hàng ngang tiến chậm đến bờ sông.
Giọng sắt lạnh của Chỉ huy trưởng:
– Lệnh của Tango. Tất cả bắn!
– Nhận rõ!

Hân miết cò súng. Hoạt đặt tinh quang kính lên sàn tàu và bắt đầu cho khạc đạn khẩu phóng lựu. Dinh kết hợp với Hân giữ cho khẩu 50 nòng kép nổ liên tục. Hàng chục làn đạn lửa từ ven sông như màn lưới phủ chúc xuống cánh đồng. Chen lẫn âm thanh giòn giã của đủ loại súng lớn nhỏ từ hai phía là tiếng la hét tiến quân của địch. Có tiếng đạn va lụp bụp vào tàu. Dinh siết chặt cò khẩu M16, rải đạn theo hàng dọc. Quốc cũng nhả đều khẩu tiểu liên. Tiếng nổ giòn tan, vang rền phá vỡ không gian. Âm thanh chát chúa ầm ầm rung chuyển đất trời. Đâu đó có tiếng rên la đau đớn…

Dinh bỏ khẩu súng cá nhân, nhoài người nối kết thùng đạn thứ tư vào khẩu đại liên. Hân chưa kịp bắn thì một tiếng ầm đinh tai điếc óc vang lên cùng lúc các mảng lửa và bụi đất bắn tóe lên giang đỉnh. Cùng lúc nhiều tràng AK nối tiếp. Dinh mọp sát lên sàn, cả người chấn động. Anh nằm yên nghe ngóng. Sau khi chắc chắn mình không bị thương, Dinh ngó qua Hân. Hân vẫn ngồi thẳng người say sưa miết cò. Như nhớ đến an nguy của bạn, Hân chợt quay sang ngó Dinh:
– Có sao không?
Dinh lắc đầu, cười gượng:
– Nô xoẹt! (No sweat: không sao)
Hân lại hướng về phía trước bóp cò. Dinh nghe tiếng Hoạt nói như hét:
– Dinh, cho tàu rút ra giữa sông.

Dinh chạy vụt vào phòng lái và hiểu lý do. Thông thường, đang tác xạ mà có lệnh rút ra xa có nghĩa là nhường chiến địa cho pháo binh dập nát địch. Tàu vừa ra đến giữa sông là loạt đạn pháo đầu tiên bay tới. Những tiếng nổ dồn long trời lở đất, từng chập, từng chập. Các đốm lửa tóe lên bùng vỡ không gian. Khi tất cả dịu dần, hai trực thăng võ trang xuất hiện, nhả những tia lửa nghiêng nghiêng, linh động, đẹp mắt. Hỏa châu thả liên tục ngay trên đầu địch, soi rọi mục tiêu cho xạ thủ liên thanh. Dinh nhìn những trái hỏa châu treo lơ lửng, chầm chậm hạ thấp. Trái này chưa kịp tắt đã nối tiếp trái kia. Không một dấu hiệu nào cho thấy địch vượt sông. Không một chiếc bè cao su nào xuất hiện. Mặt sông vàng úa êm đềm, phẳng lặng với hình dạng các giang đỉnh đang lênh đênh bờ đối diện…

Hai trực thăng rời vùng bay xuôi về phía Nam. Khung trời trở lại mịt mùng thăm thẳm đến tận các vì sao bắt đầu mờ nhạt. Loài côn trùng dường chưa hết kinh hoàng để nối lại hợp âm than thở. Không gian im lắng đến rợn người. Dinh nhìn đồng hồ: Gần 2 giờ sáng. Cuộc đụng độ kéo dài không quá nửa tiếng mà như lê thê. Nếu theo đúng lệ thường, sau mỗi cuộc phục kích có đụng độ, chi khu sẽ điều động bộ binh đổ bộ khai thác chiến trường. Lần này chắc chắn họ sẽ đếm xác địch mệt nghỉ. Cả một tiểu đoàn lọt ổ phục kích của cả giang đoàn thì chịu sao thấu. Bộ binh hành quân chỉ mang cấp số đạn giới hạn, nhưng giang đỉnh thì đầy một tàu. Đụng với giang đoàn là chỉ có từ chết tới bị thương. Có rút lui thì cũng không còn người lành lặn. Dinh nghĩ, giờ chót của cuộc chiến mà bắt được một huy chương thì cũng là kỷ niệm đáng quý! Ngôi sao đồng cũng được. Không còn kỷ niệm nào đẹp hơn cho đời lính là được tưởng thưởng huy chương anh dũng. Khi có gia đình, có nhà cửa đàng hoàng anh sẽ cho lộng kính và treo chỗ đẹp nhất ở phòng khách.

Anh thấy vui khi nghĩ đụng trận lớn thế này thì coi như đương nhiên là có huy chương. Nhưng sự việc có phần khẩn thiết hơn là… thu súng địch. Gần đây các sĩ quan Hoa Kỳ thích tìm súng của Việt Cộng mang về Mỹ như là một huy chương thành tích cụ thể. Kể cả cờ đỏ sao vàng. Hoặc tệ lắm là lá cờ giải phóng nửa đỏ nửa xanh. Lần phục kích ba tháng trước, đụng trận nhẹ, Dinh được phép đổ bộ và “chộp” được một khẩu AK, bán cho thằng ‘đối tác” được 50 đô. Càng gần ngày ký hiệp ước, giá càng cao. Tuần trước, vài thằng đặt mua súng ngắn hai trăm đô, súng dài một trăm. Cờ xí giá cũng không rẻ 50 đô. Xem ra sau đêm nay, giá còn lên dài dài cho đến khi Mỹ rút hết về nước. Trận cuối này xem ra được cái may là đụng lớn, chắc súng đang nằm lềnh khênh trên ruộng. Dinh vái thầm là sáng mai đừng có bộ binh. Không có bộ binh, chắc chắn thẩm quyền sẽ cho giang đoàn đổ bộ. Và với chiến trường không còn tiếng súng, mọi người mặc sức chọn lựa chiến lợi phẩm. Dinh nhất quyết sẽ chôm càng nhiều càng tốt. Rồi xin nghỉ phép, ôm tiền về Sài Gòn ăn chơi một phen cho đỡ buồn!

Không hẹn mà Hân cũng đang nghĩ đến các chiến lợi phẩm như Dinh. Từ ngày Liên trốn gia đình về sống với Hân, nàng đã quá vất vả. Rồi thêm sinh nở, ăn uống thiếu thốn nàng ốm nhom. Cái đáng quan tâm là cơ thể nàng không sinh sản đủ sữa cho thằng con vừa đầy tháng. Anh đã mua thêm sữa của quân tiếp vụ mà vì số lượng bán hạn chế nên phải mua thêm ở thị trường. Mà giá sữa ở thị trường thì mắc gấp đôi nên chỉ biết đau lòng nhìn con uống dặm nước cơm. Trận này là trận cuối, là dịp may cuối cùng để anh kiếm chát kha khá bồi bổ cho vợ con…

Tiếng của thuyền trưởng Hoạt vang lên đột ngột:
– Thẩm quyền đang xin trực thăng tản thương. Bên mình một chết, tám bị thương.
Giọng Hân hối hả:
– Thằng nào chết?
– Thằng Thịnh. Thịnh lát!
Dinh ngạc nhiên:
– Thằng dễ thương mà chết à? Tội nghiệp! Nó mới vừa được cô bồ ở Sài Gòn xuống thăm, cùng lúc cô bồ của tao…
Quốc đứng gần, cất giọng buồn buồn:
– Chết yên thân, chỉ tội người sống.
– Mày triết lý dữ! Biết tội cho người sống mà vẫn cứ tán tỉnh… người sống. Cái cô gì ở Tịnh Biên đó, tao mong cô đó đừng thương yêu gì mày!
– Bạn ta mong chi cho … thừa! Nay chỉ còn… buồn trong kỷ niệm!
Tiếng thuyền trưởng Hoạt từ phòng lái:
– Có chỉ thị của xếp! Đúng 8 giờ, tất cả giang đỉnh sẽ ủi bãi. Mỗi tàu được phép cho ba “thằng” đổ bộ lục soát. Tàu mình, tôi làm trưởng toán với Dinh và Quốc. Thằng Hân ở lại tàu, sẵn sàng khẩu đại liên 30 bắn yểm trợ khi có lệnh.
Hân phản đối:
– Tôi muốn đổ bộ. Thuyền trưởng cho tôi theo.
– Mày có vợ có con, ở lại tàu.
Hân xuống giọng:
– Ngưng bắn rồi, thuyền trưởng. Tôi cần kiếm vài khẩu súng. Thuyền trưởng thừa biết là tôi rất cần.
– Tao biết mày cần. Nhưng…
Hân nằn nì:
– Tôi cần lắm, thuyền trưởng!
Hoạt lặng yên một lúc rồi nhìn Dinh và Quốc:
– Thằng nào nhường cho thằng Hân?
Quốc nhìn Dinh. Dinh xua tay. Quốc gật đầu:
– Tôi, tôi ở lại tàu…
Hoạt đổi giọng, ra lệnh:
– Nghe cho kỹ: Chỉ vào sâu tối đa trăm mét. Đó là quy luật tác chiến. Thằng nào phạm luật, tao sẽ cho ngồi chuồng cọp. Đúng 8 giờ, có lệnh xếp là bắn dọn đường rồi đổ bộ. Áo giáp, nón sắt, súng đạn đầy đủ. Bây giờ ráng nghỉ dưỡng sức chờ sáng.
Hân hí hửng đùa:
– Nhận 5, thẩm quyền.

Hân tiếp tục giữ tay lái. Quốc bước về phía mũi, lặng lẽ nằm xuống cạnh khẩu đại liên. Con tàu trôi lềnh bềnh, máy standby kêu lịch bịch. Dinh buồn tình đặt ống dòm lên ngang mắt. Dòng sông hoàn toàn phẳng lặng. Anh hướng vào bờ. Mặt ruộng nhoẹt nhòa như phủ lớp lân tinh. Anh tưởng tượng tên tiểu đoàn trưởng địch nằm phơi xác với khấu súng ngắn bên hông. Thẩm quyền của anh thường kè kè khẩu rouleau, không biết tên vi-xi này mang kiểu súng gì! Súng lục của Liên Xô, Trung Cộng hay Tiệp Khắc? Của nước nào thì xem ra đều được giá, đều được tụi Mỹ hân hoan đón nhận!

Dinh bước lại gần Hân, cằn nhằn:
– Mày giành đổ bộ làm gì? Có mệnh hệ nào, thì vợ con ai lo!
Hân cười nhẹ:
– Tao tính kỹ rồi. 8 giờ là ngưng bắn thì còn… mệnh hệ nào nữa!
– Đâu có tin mấy thằng vi-xi được! Tết Mậu Thân, chính nó tuyên bố ngưng bắn để bất ngờ tấn công khắp nơi.
– Nhưng lần này nó ký hiệp ước hẳn hoi với quốc tế…
– Tao vẫn không tin lũ chuột nhắt này được. Thuyền trưởng sắp đặt hữu lý. Mày nên ở lại tàu để Quốc cùng tụi tao lục soát phải hơn.
Hân lắc đầu, khăng khăng:
– Không!
Dinh đăm đăm nhìn vào mắt Hân. Bóng tối không đủ che khuất những tia cương nghị của bạn.

Anh chợt cảm thông hoàn cảnh của bạn. Tuần rồi dự kỷ niệm con Hân đầy tháng Dinh đã nhìn thấy hoàn cảnh thiếu thốn của bạn. Căn phòng mướn nhỏ hẹp trong một xóm nghèo nàn. Thằng bé xem ra khá èo ọt. Anh choàng tay qua vai Hân:
– Tụi mình như anh em, để tao lo cho mày. Tất cả súng tao lấy được, tao sẽ tặng cho mày. Mày khỏi đi.
– Không!
Dinh kêu khẽ:
– Hân!
– Hân cái củ kẹt!
Dinh nằn nì:
– Hân! Mày đừng đi.
– Đừng cái củ kẹt!

Biết tính cứng rắn của bạn, Dinh chán nản bước về phía lái, ngả lưng lên chiếc võng căng ngang lòng tàu. Những vì sao đã nhạt mờ theo bóng đêm dần tan. Dinh tưởng tượng đến khẩu súng ngắn còn kè bên hông của xác tên tiểu đoàn trưởng. Ngoài ra, anh sẽ còn kiếm được thêm bao nhiêu khẩu AK? Ý định bán súng để giải sầu tan biến. Không chừng sầu không giải được mà còn buồn thêm? Giúp vợ chồng Hân tìm một nơi chốn tử tế là việc phải làm hơn. Dinh miên man chìm vào giấc ngủ…

Lệnh ủi bãi đổ bộ được ban ra khi mặt trời đã lên khá cao và mực nước lớn đã bắt đầu mấp mé các mảng bờ sụp lở. Mảnh ruộng phơi bày từng luống lúa ngã đổ trông như những miếng vá nham nhở. Vừa nhảy lên bờ, Hân đứng thẳng người quét ống dòm qua lại. Anh chợt nhận ra một dáng người mặc đồ đen nằm sấp như nổi trôi trên lúa. Ở phần thắt lưng, một dây đeo súng to bản vòng ngang. Hân quét qua phải. Một xác khác rồi thêm một xác nữa…

Một bàn tay vỗ lên vai anh. Hoạt ra dấu tiến quân. Chỉ chờ có thế, Hân buông thõng ống dòm, cặp cây M16 nhắm xác địch phóng tới. Hoạt ra lệnh Hân bước chậm theo hàng ngang. Dinh cũng hét lên bảo Hân chờ. Anh hét khan cả cổ nhưng Hân làm như không nghe, cố chạy nhanh hơn. Dinh phóng theo bạn đúng lúc một loạt đạn nổ giòn. Nghe nhói đau ở bắp chân, Dinh hốt hoảng sựng lại ngồi hụp xuống. Trước khi anh cúi xuống xem xét chân mình, Dinh chợt thấy người Hân lảo đảo rồi quỵ ngã. Dinh nhìn lui tìm Hoạt đúng lúc Hoạt đã tiến sát anh. Hoạt đang báo cho thẩm quyền biết toán anh vừa bị địch cho một tràng AK. Có thể một bị thương nặng. Thẩm quyền yêu cầu cho biết chắc chắn để xin trực thăng tản thương. Hoạt ra hiệu Dinh cùng tiến lên. Vừa nhả đạn vừa tiến. Một loạt đạn AK khác lại vang rền. Cả hai đáp trả thật giòn. Dinh nạp băng mới rồi nhoài người nằm xuống cạnh Hân. Anh lay động Hân:
– Hân! Hân! Có sao không?

Anh bỗng rùng mình khi thấy máu đang trào qua các lỗ đạn trên lưng áo bạn. Hình ảnh kinh khủng quá. Dinh đã nhiều lần thấy bạn bè bị thương nhưng chưa lần nào ghê gớm như lần này. Qua các lỗ đạn, máu vẫn trào ra có vòi. Thân người Hân giật giật từng lúc nhưng chắc chắn là không còn gì cứu vãn. Dinh không biết phải làm gì, tiếp tục kêu tên bạn như người mất hồn:
– Hân! Hân! Trời ơi!
Từ phía sau tiếng Hoạt thảng thốt:
– Thẳng Hân sao ra nông nổi vầy nè!

Âm thanh quen thuộc của các loạt đạn M16 nổ giòn từ hai bên. Tiếng ầm ầm của các quả M79 nhịp vang từ phía trước… Hoạt quỳ xuống, nhẹ nhàng lật ngửa Hân. Ngực Hân nhầy nhụa máu tươi. Mặt Hân bê bết bùn. Dinh trườn lên, nhìn vào mắt bạn. Đôi mắt trắng dã, trợn trừng. Đôi mắt đó, mới đây còn linh động ngay trong bóng đêm. Tiếng cười đùa, tiếng kể chuyện vợ con của Hân còn văng vẳng. Dinh nhắm mắt lại, nước mắt trào lăn. Tại sao không phải là mình? Mình đâu có thiết sống…
Hoạt giận dữ đứng thẳng người ghì chặt báng súng. Từng loạt đạn căm hờn tuôn ra giòn giã. Anh nhả cò súng, cầm ống liên hợp, nói bằng giọng hổn hển, nghẹn ngào:
– Tango. Hotel gọi. Báo cáo thẩm quyền, Hotel có một… giải ngũ!
Dinh ngẩn ngơ ngắm khuôn mặt thân thương của Hân một lúc rồi đưa tay nhẹ vuốt mắt bạn. “Hãy yên nghỉ. Tao hứa sẽ lo cho vợ con mày!”
Khi bàn tay anh qua khỏi, đôi mắt Hân đã hoàn toàn nhắm kín…

Vũ Thất
(Trích “Một Dòng Sông Cho Chiến Đỉnh”, Sài Gòn 1974)

Tháng Tư Khúc Đoạn Trường

Hằng năm cứ vào tháng tư, mỗi khi những kẻ thắng trận tổ chức lễ hội chào mừng rộn rã thì tôi lại nhớ ngày ra khỏi tù, một mình với bộ đồ vá nhiều mảnh, ngồi trước mộ con nơi góc ruộng rất xa ở làng Đại Chí, xã Bình An, Bình Khê, Bình Định.

Trong tấm hình là cô nữ sinh đang ngồi trong lớp. Cô nữ sinh đó là vợ tôi, chụp vào năm 1974 khi còn đi học. Hình kế bên chụp ba năm sau đó (1977) là vợ tôi đang ôm con đợi tôi về. Đứa bé tên Lục Bình. Mới có ba năm mà vợ tôi từ một cô nữ sinh xinh đẹp đã trở thành một cô thôn nữ nhìn già hẳn đi vì mỗi ngày phải ra ruộng và chiều về ôm con để đợi.

Tháng 5 năm 1975, chung số phận của những người lính đã để đất nước lọt vào tay kẻ địch, tôi bị bắt vào trại lao động khổ sai của bên thắng trận, thì Lục Bình lúc đó mới chỉ là bào thai năm tháng còn đang nằm trong bụng mẹ.

Tháng 9 năm 1975, Lục Bình được sinh ra đời trong lúc tôi mặc áo tù nhân phá rừng làm đường ở trại Đồng Găng thuộc tỉnh Khánh Hoà.

Tháng 4 năm 1976, vợ tôi ẳm con chưa đầy 7 tháng tuổi lặn lội đường xa đi thăm tôi ở Đồng Găng. Đó là lần đầu hai cha con tôi được nhìn thấy nhau. Gọi là nhìn thấy nhau vì đám cán bộ cai tù không cho phép tôi được ôm con mình. Bọn họ nói đó là tội uỷ mị, tàn dư của “nguỵ quyền” Sài Gòn để lại.

Tháng 6 năm 1976, tôi được chuyển từ Đồng Găng ra trại A.30 Tuy Hòa. Mỗi một chiếc GMC là 50 tù binh ngồi chồm hổm chen chúc nhau. Phía trên là hai khẩu AK47 của công an áp giải, chĩa thẳng với tư thế sẳn sàng nhả đạn. Khi đi ngang thị trấn Ninh Hòa là nơi tôi được sinh ra và lớn lên, nhìn qua thành xe tôi thấy lại những con đường mà mới ngày nào tôi còn cắp sách đi trên đó đến trường. Nhưng con đường gần gũi đến thế mà giờ đây chừng như xa vời vợi.

Tháng 12 năm 1977, vợ tôi ẳm Luc Bình thăm tôi lần nữa tại trại A30. Đó là lần duy nhất trong cuộc đời tôi được ôm con trong vòng tay. Nhìn vợ tôi xơ xác, nhìn Lục Bình ốm tong teo vì thiếu dinh dưỡng, lòng tôi đau như cắt, mặc dù hình hài tôi cũng chẳng ra gì sau hai năm bị cưỡng bức lao động khổ sai, bất kể nắng mưa cùng những cơn đói.

Trong trại tù, mỗi đêm trước khi chìm vào giấc ngủ, tôi thường thầm thì là ráng đợi ba về, nhưng con tôi đã không. Đó là ngày mồng 10 tết 1979. Hai năm sau, năm 1981 tôi mới được thả và ra ngồi trước mộ con mình. Cảnh chiều làng quê Đại Chí âm u với vài chiếc lá rụng. Tôi ngồi một mình với chiếc áo tù nhân và tôi khóc.

RA NGỒI TRƯỚC MỘ

Đại Chí chiều nay ba trở lại

Cắm nén nhang này trước mộ con

Cảnh cũ giờ đây sau mòn mỏi

lòng ba đau tựa nhát gươm cùn

chiều lên mờ khói nhạt

hoàng hôn ngậm cỏ sầu

não nùng con dế khóc

chim lạc cánh về đâu

Lá lìa cành run rẩy

Đảo giữa trời co ro

Nghe dường như con gọi

tiếng não nề ba ơi

Ba nhớ làm sao bóng dáng con

Thiếu tình ba thuở lọt lòng son

Hạnh phúc đâu theo người chiến bại

Con chết ba đang bị gông cùm

Ba nhớ làm sao đôi mắt con

Sáng như sao sáng giữa trời đêm

Sáng rọi đường ba hằng mơ ước

Một nhát gươm vung chặt xích xiềng

Ba chẳng hẹn về con vẫn đợi

Bao năm rồi suốt quãng đời thơ

Đâu biết đi là không trở lại

Là xa cách mãi đến nghìn thu

Mẹ nói con thường ra trước sân

Nẻo vắng đường xa dõi mắt trông

Lắng tiếng xe ai ngừng trước ngõ

Có phải ba về với con không

Ngục tối từng đêm ba nguyện cầu

Quì xin thượng đế rất nhiệm mầu

Xiềng xích phá tan ba trở lại

cho đời con trẻ bớt sầu đau

Trở lại thôn xưa chiều nhạt nắng

Đói khổ lan tràn khắp lối đi

Cổng trước cài then nhà sau vắng

Mộ đã xanh màu cỏ biệt ly

Cỏ đã xanh um màu thương nhớ

Bóng hình con trẻ biết tìm đâu

Ba với tình con nay đã lỡ

Đành hẹn tao phùng ở kiếp sau

Con hỡi từ đây đành vĩnh biệt

Thơ làm rướm máu nhói lòng đau

Quan Dương (baotiengdan.com)

Mời đọc Văn Thơ của Quan Dương:

https://www.ninh-hoa.com/QuanDuongIndex.htm

Ông Phật Dược Sư Của Tôi

Ông Phật Dược Sư Của Tôi

Chúng tôi di chuyển bộ từ Trại 3 thuộc Liên Trại 1 ở phía Bắc sông Hồng về Trại 8 phía Nam sông Hồng vào tháng 5/1977. Trại 8 thuộc vùng đồi núi Hoàng Liên Sơn nằm gần khu hồ chứa nước cho công trình thủy điện Thác Bà. Ngay từ lúc đặt chân tới trại mới, công việc của chúng tôi là tu bổ sửa sang lại khu trại đã cũ đã xuống cấp này và chuẩn bị cho vụ trồng cây lương thực sắp tới. Vì thời tiết của khu trại cộng thêm cường độ lao động (chủ yếu là phát quang trồng rẫy và đốn cây, tre, nứa) khá căng thẳng nên sức lực của tù nhân ngày càng kém.

Cho đến tháng 7 thì dịch kiết lỵ, tiêu chẩy ập tới trên diện rộng cho cả liên trại. (Thực tình tôi cũng không còn nhớ chính xác là Liên Trại 4 này có bao nhiêu trại nhưng qua các kỳ đi lãnh lương thực phẩm, gặp gỡ các bạn tù từ các trại khác thì ít nhất tôi cũng nghĩ là Liên Trại này gồm 8 trại và một trại y tế là Trại 9.)

Tôi bị mắc bịnh lỵ vào khoảng tháng 9 năm 1977. Những anh em bị sớm hơn thì khoảng tháng 8. Lúc đầu những cơn đau bụng ngầm và tiêu ra đờm rồi máu ngày 5 hoặc 6 lần. Trại có phát thuốc đề kháng lúc đầu cho bịnh nhân là Xuyên Tâm Liên, một loại thuốc, theo lời quảng cáo của cán bộ y tế trại đây là một loại kháng sinh “ngang tầm” với Peniciline ngoại! Mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần 3 viên. Tôi uống ròng rã gần hai tuần vẫn không dứt và sức khỏe ngày càng kém hơn. Trại Trưởng là một thượng úy nghĩ ra một phương thuốc dân tộc: Nước lá ổi. Trong một buổi nói chuyện với chúng tôi, ông ta bảo lá ổi có khả năng chữa lành mọi thứ bịnh đường ruột mà ông bà tổ tiên đã sử dụng. Ông ta hỏi cả hội trường, “Ngày xưa làm gì có thuốc trụ sinh. Kiết lỵ, hay té re thì chỉ cần ăn trứng gà xào với lá mơ hoặc lá ổi nấu đặc là hết tất. Đúng không nào?” Rồi nói tiếp, “Nhưng điều kiện trại không có trứng gà, vì trứng gà là một loại thực phẩm cao cấp thành ra chúng ta sẽ khắc phục bằng nước lá ổi là đủ!”

Từ sau hôm đó, đám bịnh nhân chúng tôi ngưng uống Xuyên Tâm Liên vì – theo y sĩ của trại – là đã bị nhờn thuốc, để chuyển qua uống nước lá ổi. Ban y tế trại được phân công hàng ngày phải đi hái lá ổi và nấu sôi trong một nồi lớn để ngay tại phòng khám bịnh. Các con bịnh luân phiên lấy về uống theo liều lượng mỗi người một bi đông hoặc chai loại 1 lít mỗi ngày thay cho nuớc lã.

Số bịnh nhân bịnh lỵ trong trại khoảng 20 trên tổng số hơn 150 người. Những anh em có tuổi và những người mắc các loại bịnh khác như đau bao tử, viêm gan hoặc tim mạch dần dần kiệt sức và không còn khả năng đi lại được nữa lần lượt được chuyển qua Trại 9 là trại y tế của liên trại để điều trị. Đến tháng 11 trời bắt đầu trở lạnh, chúng tôi được tin những anh em này chết gần hết (1).

Lúc đầu thì lác đác từ các trại khác mỗi lần gặp nhau trên đường làm nương rẫy hoặc lấy gỗ có tin các bạn bè, người quen đã bỏ mạng. Đến khi trời vào Đông thì số chết tăng nhanh hơn. Riêng Trại 8 nơi tôi ở đã có tới 9 người chết vì căn bịnh này. Riêng tôi và anh bạn khác đội sản xuất có tên là Nguyễn Văn T (nguyên là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Truyền Tin của một đơn vị tại Vùng 4) còn lê lết đi lại được nên chưa được đưa qua Trại 9. Tôi và T và 3 người khác (hai người bị bịnh bao tử nặng là anh Đỗ Long V (một trung tá sĩ quan quản trị tiếp liệu thuộc Quân Đoàn 4) và Bùi Văn N (Trung Tá Quận Trưởng một quận thuộc Quân Đoàn III), anh Nguyễn Đăng K (Trung Tá Lực Lượng đặc Biệt bị lở loét cùng mình – mà có người nói là loại bịnh giời bò! (1). Năm người chúng tôi được y tế trại cho nghỉ lao động nằm điều trị tại trại.
Trời vào Đông, thời tiết lạnh cóng ngày càng lạnh thêm, phần gạo tiêu chuẩn ngày càng bớt dần từ 12 cân xuống còn 8 cân rưỡi và bù vào đó là số sắn lát hoặc bắp khô 5 cân một tháng. Sức khỏe của tù cải tạo cả trại ngày càng kém. Tin tức từ trại 9 đưa về cho biết hầu như những tù nhân nào được chuyển đến trại y tế này được coi là một chuyến đi không có ngày trở lại! Thậm chí mỗi khi có bịnh nhân chuyển qua Trại 9 anh em ở lại tự hiểu những người bạn đó sẽ vĩnh viễn nằm tại vùng đất này. (2)

Anh V trước Tết chừng nửa tháng, trong một đêm đau bụng dữ dội, viên y sĩ được cấp báo đi vào trong chẩn bịnh rồi phán một câu chắc nịch, “Không sao hết, chắc bao tử bị loét lại ăn sắn lát nên nó xót nó hành thôi, để tôi chích cho một mũi giảm đau là êm!” Và quả thật sau khi anh ta chích mũi thuốc thì V không còn kêu réo gì nữa, anh ấy ra đi sau mũi thuốc khoảng nửa tiếng!

Anh T cầm cự được tới ngày 23 Tết năm ấy lúc cả trại đưa ông Táo về trời. Sau bữa ăn tiễn ông Táo, anh không còn đủ sức bước lên cầu tiêu được nữa. Anh xả ngay tại chỗ nằm, chân tay lạnh cóng. Cho đến sáng hôm sau thì trại quyết định chuyển anh qua Trại 9. Khi chia tay, anh nhìn những người còn lại mang vẻ chia sẻ chua xót và cảm thông. N bảo, “Thôi anh chịu khó qua đó một thời gian, rồi trở về trại ăn Tết cùng tụi này.” Anh T nói thì thào, “Chúc các bạn ở lại mau mạnh khỏe và sớm trở về sum họp với gia đình, còn tớ thì chắc sẽ không về nữa đâu.” Và anh đã không về thiệt. Anh chết trên đường di chuyển trước khi vào tới cổng Trại 9. Dù vậy anh cũng vẫn được khiêng vào nhập trại để làm thủ tục chôn cất tại ngọn đồi nơi trại.

Không hiểu sao Tết năm ấy (1978), trại lại phát cho mỗi người 3 cây nhang không phân biệt có tôn giáo gì. Trại trưởng phát biểu trong ngày tất niên, “Dù đạo gì các anh chắc cũng cần đến nhang để khấn tổ tiên ông bà, thành ra chúng tôi thông cảm với những ‘thành khẩn’ ấy, Trại đã ‘thực hiện’ chính sách tôn trọng tín ngưỡng của Đảng và nhà nước, thực hiện cho các anh mỗi người 3 nén hương để các anh ‘hành lễ’!” Trại cũng mua về một con trâu già gẫy sừng để làm thịt cho cả trại ăn Tết. Mỗi người còn được phát một nửa chiếc bánh chưng bằng bàn tay và hai chiếc kẹo gói giấy kiếng. Cả trại được nghỉ lao động từ chiều 30 đến hết mồng 2 Tết mới “ra quân” trở lại. Không khí Tết có vẻ bớt u ám đi nhiều. Nhất là chiều 30 sau khi tù nhân lãnh mỗi người một miếng thịt trâu bằng 3 đầu ngón tay cùng 3 muỗng nước thịt trâu kho và một chén cơm gạo trắng không độn! Từ đầu lán xuống cuối lán tụm năm túm ba anh em ngồi hàn huyên, hoặc xì xụp cúng kiếng!
Tôi hiểu rõ căn bịnh của mình nên không dám đụng tới thịt và mỡ trong bánh chưng nên nhường phần bánh và thịt của mình cho các bạn. Tôi đem phần cơm trắng bỏ vào chiếc lon gô mang xuống bếp nấu thành cháo loãng để ăn với muối như thường ngày.

Buổi chiều 30, tôi cố gắng chống gậy đi lên khu tắm tập thể để tắm tất niên như một thói quen từ ngày còn nhỏ. Trước khi đi tù cải tạo, tôi nặng 75kg cao 1m 69. Cách đây 3 tháng trước khi cơn bịnh phát nặng, lần đi lãnh gạo cuối cùng tại xã Cẩm Nhân huyện Yên Bình, một kho lương thực của xã hay huyện gì đó tôi còn cân được 45kg. Nhưng bây giờ thì chắc còn nhẹ hơn thế nhiều nên tôi muốn di chuyển phải chống bằng gậy và lê chân từng bước một. Mỗi ngày tôi vẫn phải lê lết như thế đều đặn từ 5 đến 6 lần để lên khu vệ sinh công cộng nằm cách xa lán ngủ chừng 30 thước! Nhiều khi quá mệt mỏi tôi ngồi lại trên một tảng đá nằm giữa khu lán ngủ và khu vệ sinh để chờ chuyến đi vệ sinh kế tiếp nhằm tiết kiệm năng lượng. Tắm xong tôi ra tảng đá quen thuộc ngồi một mình.

Mới đó mà cũng gần hai năm tôi đặt chân ra vùng đất này. Vợ con tôi vẫn biệt vô âm tín chẳng biết sống chết ra sao. Thỉnh thoảng nghe tin đọc trên báo Nhân Dân qua loa phóng thanh của trại, tôi được biết Sài Gòn hiện nay bà con đang “hồ hởi phấn khởi tích cực tình nguyện” đi vùng kinh tế mới mà lòng nghi ngại không biết trong những gia đình “hồ hởi” đó có gia đình mình trong đó hay không? (Nhà tôi vốn là một cô giáo, cháu trai lớn nhất của chúng tôi sinh năm 1966 và cháu út sinh năm 1972.) Nếu có thì sẽ sinh sống ra sao, còn không đi thì ra sao đây?

Thực ra trong những ngày đầu tiên sau khi đi trình diện cải tạo và nhất là thời gian di chuyển ra miền Bắc, tôi đã xác định cho mình không một hy vọng trở về sum họp với gia đình. Sống với tôi là hãy sống, vậy thôi, chẳng chờ đợi hay mong mỏi một phép lạ nào hết. Sống như một bản năng ham sống của con người.

Trong suốt 15 năm quân ngũ tôi đã đối diện với không biết bao nhiêu lần cái chết. Cho ngay cả khi tôi tưởng tôi đã chết thiệt vào năm 1967 sau một cuộc hành quân trực thăng vận vùng Bắc Cai Lậy, khu Kinh Sáng. Đơn vị tôi đụng đầu với Trung Đoàn Đồng Tháp. Trận đánh cuối cùng cuả Tướng Nguyễn Bảo Trị trước khi bàn giao lại sư đoàn. Tôi bị thương vào ngực trái sát với tim. Chỉ cần nhích đi chừng một phân thôi trái tim tôi sẽ vỡ tung. Tôi đã lên cơn sốt suốt một đêm vì máu đọng lại trong lồng ngực và máy bay tải thương không đáp xuống được do đạn phòng không. Cho đến tờ mờ sáng hôm sau tôi mới được đưa thẳng về bịnh viện Cộng Hòa. Tại đấy tôi nằm thiếp đi hai ngày đêm sau ca mổ mới tỉnh lại. Trong thời gian nằm thiếp đi như thế, đã có lúc tôi thấy mình bay lên rất cao trên bầu trời như một cánh diều! Tôi đã được điều trị gần hai tháng tại bịnh viện trước khi trở lại đơn vị cũ.

Rồi năm 1972 trong trận đánh Kontum tôi lại bị thương một lần nữa, lần này là một trái hỏa tiễn 122 ly từ phía Bắc sông Po-Krong bắn vào BCH Trung Đoàn (trú đóng tại thành DakPha của Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 24 cũ). Tôi và hai chú lính đi cùng bị thương. Sống chết chực chờ, đời lính là như thế, trong cái hoang mang đau đớn của một cuộc nội chiến kéo dài lê thê này. Người thắng và kẻ thua nhìn ra vẫn là chung một giống nòi. Bây giờ hòa bình rồi, tôi đã làm tròn bổn phận của một công dân. Cuộc chém giết giữa anh em đồng bào đã kết thúc không đáng giá hơn cái vinh nhục khổ đau của một cá nhân hay sao?

Từ trên tảng đá tôi nhìn ra phía hồ. Trời về chiều, trong rừng bóng tối lên khá sớm. Một vài bản xa đã thấy le lói ánh đèn. Tôi ngồi suy nghĩ mông lung và bỗng bựt ra một ý tưởng lạ lùng. Đêm nay, trong giờ giao thừa tôi sẽ ra vùng đầu hồi khấn cùng trời đất thiên địa hãy mở ra cho tôi một con đường. Cuộc sống giờ đây đối với tôi là quá đủ. Tôi không còn gì tha thiết hay mong cầu. Tôi muốn một nơi chốn bình yên, như mặt hồ phẳng lặng kia, như những làn khói tỏa nhẹ kia từ phía bản làng.

Lúc giao thừa, ngay khi tiếng loa phóng thanh từ phía bộ chỉ huy trại phát đi lời chúc Tết năm mới của “Chủ Tịch Tôn Đức Thắng”, tôi ngồi dậy. Chung quanh tôi im lặng nhưng tôi tuyệt không nghe thấy một tiếng ngáy nào như thường lệ. Có lẽ các bạn tôi cũng đang nghĩ về gia đình, người thân hoặc một điều gì đó rất riêng tư.

Tôi lấy ba cây nhang thắp lên và đi ra ngoài đầu lán. Trời tối mịt mùng, từ đây nhìn xuống con đường đất nhỏ chạy ven dưới chân đồi chỉ còn là một vệt sương trắng. Bên kia đồi là Ban Chỉ Huy của trại. Chiếc bóng điện treo le lói ngay cổng vào. Giữa sân là cây cột có treo chiếc loa phóng thanh. Từ chiếc loa đó phát đi lời chúc đầu năm của “vị chủ tịch nước”. Tiếng gió lao xao chao động thành ra âm thanh tiếng nghe được tiếng mất tôi cũng chẳng hiểu “cụ Tôn” đang nói những gì.

Tôi tập trung tinh thần và hướng về phía hồ mà khấn rằng: “Tên tôi là… sinh ngày… tháng… năm… quê quán tại…, vợ con đang cư ngụ tại… Nhân đêm nay là đêm giao thừa, giờ phút linh thiêng của trời đất, tôi xin nguyên một điều: Trong suốt cuộc đời tôi, tôi không làm điều gì sai trái với lương tâm của mình. Nếu có ai đó vì tôi mà chịu tai họa, hãy tha thứ cho tôi. Riêng tôi, tôi không hận thù ai hết. Tôi sẵn sàng tha thứ cho bất cứ ai đã gây cho tôi những khổ đau tang tóc.
Nếu nghiệp số tôi còn nặng nợ, phải tiếp tục đáp đền thì xin thiêng liêng hãy cho tôi chấm dứt căn bịnh quái ác này. Còn nếu nghiệp căn của tôi đã trả đủ thì xin hãy cho tôi đuợc ra đi thanh thản ngay chính đêm nay sau lời khấn nguyện này.” Nguyện khấn xong tôi bình thản cắm ba cây nhang lên chỗ tôi đã đứng và lặng lẽ trở lại giường nằm.

Đêm ấy tôi đã ngủ vùi cho đến lúc mặt trời chiếu qua vách lá xuyên vào chóa mắt khiến tôi không thể ngủ thêm được nữa. Như trong dự định, tôi rửa mặt và đi xuống lán dưới để tìm gặp chúc tết bạn bè. Người tôi gặp đầu tiên là anh Đặng Nguyên P. Anh là Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh sư đoàn tôi. Anh đang ngồi uống trà một mình. Những lá trà tươi lấy từ bụi trà trồng gần trại thêm một chút gừng, theo anh nói sẽ làm con người cảm thấy khỏe khoắn thanh thản hơn. Anh mời tôi ngồi xuống chiếu rồi hỏi thăm tôi về tình trạng căn bệnh của tôi diễn biến ra sao.

Tôi lặng lẽ, “Chẳng có tiến triển gì hết. Có lẽ căn bệnh đã trở thành chronic rồi nên con amib nó cũng rút vào một nơi nào đó để gặm nhắm từ từ chăng?” Buột nhiên anh hỏi tôi, “Chú có biết chú Dược sư không nhỉ? Chú này linh lắm đấy, chú thành tâm cầu khấn xem sao?” Tôi nói tôi không biết. Anh sốt sắng xé một mảnh giấy nhỏ, đưa cây viết chì và đọc cho tôi nghe câu chú. Tôi ghi vào miếng giấy rồi tiếp tục ngồi chơi với anh một lúc sau thì chột bụng lại chống gậy leo lên dốc.

Buổi chiều mồng một, từ tảng đá lưng chừng đồi, tôi ngồi một mình nhìn ra phía mặt hồ. Dưới đó vài chục thước, các bạn bè tôi ngồi thành từng nhóm nhỏ dưới những tán cây rừng, nói chuyện, uống trà, chơi cờ tướng… Không khí thật bình yên. Tôi lấy mảnh giấy viết câu chú hồi sáng nay ra nhẩm đọc. Năm mươi hai chữ trong câu chú tôi đoán chừng là đã được phiên âm từ chữ Phạn ra tiếng Hán rồi đọc trở lại qua âm Hán Việt. Không có liên kết gì về ngữ nghĩa, lại không có vần điệu kiểu như một loại thơ phú gì đó khiến cho việc học thuộc càng khó hơn. Thêm vào đó, tình trạng sức khoẻ của tôi lúc đó rất kém, trí nhớ mụ mị, việc học lại thêm khó hơn nữa. Dù sao, khi kẻng báo lãnh phần ăn chiều vang lên từ khu nhà bếp trại thì tôi cũng đã thuộc lòng bài chú.

Nhớ lại lời anh P. hồi sáng nói với tôi trước khi ngủ, nên ngồi tĩnh tâm chừng 30 phút, niệm chú 9 lần. Đêm hôm đó tôi thực hành đúng theo lời anh khuyên.

Buổi sáng mồng hai tôi thức dậy như thường lệ. Lại một ngày như mọi ngày, mọi người lo vệ sinh cá nhân xong thì chờ chia phần ăn sáng và trưa nhập làm một. Khẩu phần của tổ bệnh nhân chúng tôi ưu tiên được ăn cháo nấu bằng gạo. Còn các anh em khác thì hoặc mỗi người hơn một chén bo bo hầm. Tình trạng này kéo dài tới khoảng giữa năm 1977 khi trại thu hoạch vụ bắp đầu tiên do tù cải tạo trồng trên nương thì thực phẩm chính là hai hoặc ba cái bắp (tùy theo lớn nhỏ) hoặc ba khúc khoai mì tùy theo vụ thu hoạch là khoai mì hay bắp. Mỗi năm chúng tôi được ăn 9 ngày cơm trắng vào các ngày lễ lớn gồm Lễ Lao Động 1 tháng 5, Lễ Độc Lập 2 tháng 9, ngày 22 tháng 12 Kỷ Niệm Thành Lập QĐNDVN và Tết Nguyên Đán.

Trong lúc loay hoay gấp mùng mền tôi thấy dưới chiếu tôi lộ ra một tờ báo. Tôi hơi ngạc nhiên cầm lên đọc. Đó là một tờ báo Nhân Dân phát hành rất lâu tôi không còn nhớ ngày tháng. Thấy tôi trải rộng tờ báo ra đọc, Anh Bùi văn N nằm sát cạnh tôi cho biết đó là một trong hai tờ báo anh lượm được hôm anh được gọi sang làm tạp dịch trước Tết bên Ban Chỉ Huy trại đem về trải lót dưới chiếu che gió lùa từ dưới gầm giường lên chỗ anh và tôi nằm.

Tôi lướt mắt đảo qua trang nhất, ngoài vài tấm hình của các cấp lãnh đạo đi thăm nông công trường và những bài viết chính trị thường lệ không có gì để xem. Khi giở vào trang trong, tại trang 3 có một tin làm tôi chú ý. Bài báo nói về trường hợp một bệnh nhân bị bệnh đường ruột lâu năm, đã được điều trị bằng nhiều loại thuốc khác nhau nhưng không khỏi. Sau đó Bệnh Viện 108 đã sử dụng phương pháp vật lý trị liệu bằng cách cho bệnh nhân này mỗi ngày luyện tập động tác thể dục “chào mặt trời” trong vòng 1 tháng liên tục đã mang tới kết quả khả quan và sau 3 tháng luyện tập thì bệnh nhân này lành bệnh hẳn!Mẩu tin này gây cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tôi đi hỏi một số anh em trong lán về động tác “chào mặt trời” là động tác ra làm sao. Không ai biết hoặc trả lời một cách thỏa đáng cả. Cho đến buổi chiều tôi xuống lán kế cận, hỏi một anh được nghe đồn là biết Yoga. Tên anh là P. Anh là một Trung Tá Hải Quân, có thời làm chỉ huy trưởng một hải đội đồn trú tại Qui Nhơn. Anh tỏ vẻ sẵn sàng biểu diễn và chỉ dẫn rất tận tình. Nhưng khi xem anh làm xong, tôi biết chắc là tôi không thể thực hiện được các hành động rất phức tạp này, lý do đơn giản là đi còn không vững thì ngồi lên đứng xuống quay trái quay phải kiểu như anh là bất khả!

Buổi tối hôm ấy, tôi ngồi tĩnh tâm và niệm chú như thường lệ. Trước khi đặt mình xuống ngủ, tôi ra đầu lán làm thử động tác vươn thở giản dị. Đứng hai chân ngang nhau, sau đó đưa chân trái ra trước chừng nửa bước, vươn vai, đầu hướng lên cao hít thật sâu, cúi xuống chấm tay xuống ngón chân, thở ra… đổi qua chân phải làm chưa kịp xong động tác thứ hai thì tôi loạng quạng muốn té bổ nhào về phía trước!

Trở vào chỗ ngủ, tôi quyết định là tôi sẽ tập theo động tác này, phụ họa thêm một ý nghĩ khi vươn lên thở như thế tôi sẽ quay mặt về hướng Đông – có vẻ như tôi bị ám ảnh về chữ chào mặt trời! Từ buổi sáng mồng 3 tôi bước vào cuộc tập do tôi phóng tác ấy. Lần đầu được hai lần, ngồi nghỉ mệt, rồi thêm 2 lần kế tiếp, rồi nghỉ, tôi làm 5 lần mất chừng 45 phút thì ngừng. Buổi tối trước khi lên giường, tôi cũng tập chừng nửa tiếng cùng động tác ấy.

Đến ngày mồng 10 Tết năm ấy thì căn bịnh của tôi giảm đi rất rõ. Số lần đi tiêu giảm đi một nửa, và đặc biệt hơn cả là trước khi đi tiêu, bụng tôi không còn bị đau như có cảm tưỏng bị một con gì cắn từ trong ruột nữa. Cơn đau chỉ ngầm ngầm một lúc rồi thôi. Ngày rằm tháng Giêng năm 78 thì căn bịnh kiết lỵ dai dẳng hành hạ tôi suốt gần 4 tháng trời chấm dứt. Sức khỏe tôi hồi phục nhanh hơn tôi tưởng và cuối tháng Giêng tôi đã có thể theo anh em đi lao động trở lại.
Từ đó ông Phật Dược Sư (từ đây trở xuống tôi sẽ gọi ông là ông Phật) đã ở lại với tôi và theo tôi trong suốt cuộc hành trình gian nan khổ sai ấy. Ông hưởng chung với tôi thêm 11 cái Tết trong tù, lang thang di chuyển thêm 4 lần chuyển trại nữa. (Trại 8 qua Trại Vĩnh Phú 1978, Nam Hà 1981, Z30 1982 cho đến khi tôi được trở lại với gia đình năm 1988.) Ông cũng đã theo tôi và lần này có đầy đủ thành viên gia đình để làm lại cuộc đời nơi xứ lạ quê người. Mới đấy mà cũng đã gần 30 năm kể từ ngày tôi được gặp Ông.

Từ hai bàn tay trắng, cùng một gia đình bị đối xử phân biệt khắc nghiệt ngay trên quê hương mình tôi không còn chọn lựa nào khác là phải khăn gói ra đi. Nơi tôi đến là một xứ sở hoàn toàn xa lạ về nòi giống, ngôn ngữ, phong tục. Ông Phật của tôi thật sự lại một lần nữa là chỗ dựa và trao tôi niềm tin để tôi sống còn.

Con cái tôi đã học xong đại học, ra trường và có việc làm ổn định từ năm 2000. Các cháu quyết định không cho bố mẹ đi làm nữa. Trong bữa ăn mừng kỷ niệm ngày chúng tôi thành hôn lần thứ 36, cháu trai trưởng nói, “Bây giờ chúng con đã trưởng thành, bố mẹ hy sinh như vậy là quá đủ, bây giờ bố mẹ phải nghỉ ngơi, để đến phiên chúng con làm bổn phận của mình.” Má cháu nghỉ trước còn tôi dù sao cũng phải chờ thêm 3 năm nữa, khi phân xưởng tôi làm đóng cửa chuyển công việc sang Trung Quốc.

Từ kinh nghiệm bản thân, niềm tin của tôi đã không đến bằng lý luận hoặc xuyên qua các học thuyết. Đơn giản chỉ vì tôi cho rằng Ông Phật của tôi nằm trong một chiều kích không gian khác. Với con mắt quen thuộc của không gian ba chiều của con người không thể nhìn ra được. Ông nằm trong chiều thứ 4 thứ 5 thậm chí chiều thứ 11 nào đó cong nhỏ lại hoặc lớn bất tận nằm ngoài nhận thức con người. Muốn thấy ông tôi phải hội đủ hai điều kiện: Cuộc sống đẩy tôi vào đáy vực của tuyệt vọng và lòng tìm cầu chân thành của tôi mong muốn một giải pháp cho tình trạng ấy. Điều kiện đầu là cần và điều kiện thứ hai là điều kiện đủ.

Tôi không nhìn thấy ông nhưng tôi cảm nhận được sự có mặt của ông khi tôi gặp. Ông không có năng lực siêu nhiên làm phép lạ để thỏa mãn ngay tức thời những mong muốn của tôi, nhưng ông chỉ ra cho tôi cung cách tôi phải làm, con đường tôi phải đi. Đi được hay không, làm được hay không là chính bản thân tôi quyết định. Niềm tin thông thường là điều kiện để con người có thể sống chung và hợp tác làm việc chung với nhau trong xã hội. Khi niềm tin bị phản bội, con người trở nên hoài nghi, sống trong âu lo lạc lõng. Đó chính là tâm trạng của tôi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Tôi mất lòng tin vào chính những cấp chỉ huy của mình và chẳng bao giờ tin vào lời nói hay việc làm của những người thắng trận. Từ khi gặp ông Phật của tôi, tôi tìm lại được đức tin của mình. Tôi gọi đó là Đức tin bởi vì đức tin của tôi đã chuyển hóa mọi sự mà người khác cho là phi lý trở thành hữu lý như lời của triết gia Kierkegaard, “When the believer has faith, the absurd is not the absurd – faith transforms it” (4). Ông Phật của tôi không trả lại cho tôi thể trạng như mong muốn nhưng rõ ràng đã thay đổi tâm trạng tôi từ khi tôi gặp ông.

Tôi nghĩ tới một ví dụ khá lý thú của Friedrich Waismann (2) khi đưa ra chuỗi số vô định sau đây: 1-1+1-1+1-1+1-1… và đặt câu hỏi tổng của chuỗi số này là bao nhiêu. Nếu ai dừng lại ở một số hạng chẵn, tổng của nó là 1. Còn nếu dừng lại ở một số hạng lẻ, câu trả lời sẽ là 0. Riêng với lối biện giải của Euler khi cho rằng vì là một chuỗi vô hạn nên nó không thể dừng ở bất kỳ số hạng chẵn hoặc lẻ nào nên tổng của chuỗi sẽ không thể là 1 hoặc là 0 mà là trung bình cộng của 1 và 0, nghĩa là bằng ½ !

Tôi không bận tâm tới những lời bênh/ chống của các luận điểm về có hay không một ông Thượng đế toàn thiện toàn năng toàn trí. Tôi cũng không thấy hứng thú gì về các sự ủng hộ hoặc phản bác về các luận thuyết thuộc bản thể học (ontological arguments), vũ trụ thuyết (cosmological arguments), cứu cánh luận (teleological arguments) trong toan tính đi tìm một chứng minh cho sự tồn tại, hay không tồn tại của Thượng Đế.

Trong cuộc đời hữu hạn của kiếp nhân sinh của tôi, may mắn tôi đã dừng lại ở một số hạng lẻ, ở đó tôi đã gặp được ông Phật của riêng mình. Những người khác dừng lại ở một số hạng chẵn thành ra họ không gặp ai cả. Riêng những ai đi tìm tổng của chuỗi số này ở vô định, chắc chắn ở đó họ sẽ chỉ còn gặp sự hoang mang chập chờn. Có đôi khi tôi không nghĩ rằng có một ông Phật, ông Chúa, ông Trời, chung cho tất cả mọi người. Mỗi người có một ông cho riêng mình. Tôi nhớ tới nghịch lý Bertrand Russell (3) con người ai cũng có một bà mẹ, nhưng tập hợp toàn bộ con người thì lại không có một bà mẹ chung.

SONG VŨ
(Nhân Mùa Báo Hiếu Tân Hợi 2007)

Ghi chú:
(1) Tính từ ngày đặt chân tới trại 3 Liên Trại 1 vào tháng 6/1976 cho tới khi chuyển về trại Vĩnh Quang thuộc tỉnh Vĩnh Phú vào tháng 8/1978, những người cùng sống chung trại với tôi đã chết trong hai Trại 3 Liên Trại 1 và Trại 8 Liên Trại 4 là khoảng gần 20 người, trừ hai anh Phạm Minh X (Trung Tá Thiết Giáp cắt mạch máu tay tự tử), anh Vương Đăng P. (Trung Tá Tiểu Khu Phó Bình Thuận bị đột qụy), các người còn lại chết vì nhiều loại bịnh khác nhau nhưng vì bịnh kiết là đa số.

(2) Anh K chết vào khoảng tháng 5/1978 ba tháng trước khi hệ thống Liên Trại 4 Hoàng Liên Sơn giải thể và bàn giao tù cải tạo qua cho hệ thống quản lý trại giam của công an. Tháng 8/78 chúng tôi chuyển về trại cải tạo Vĩnh Quang, Vĩnh Phú.

(3) Nguồn: Basic Problems of Philosophy 4th Edition. Edited by Daniel J. Bronstein; Yervant H. Krikorian; Philip P. Wiener. Prentice- Hall, Inc Englewood Cliffs, New Jersey, 1972, p. 46.

(4) Nguồn: The Philosophical Journey An Interactive Approach. William F. Lawhead. Mayfield Publishing company, 2000, p. 423. 

Song Vũ (tranthinguyetmai.wordpress.com)

Thần Chú Dược Sư Tiếng Phạn – Medicine Buddha Mantra.

Ý nghĩa & lợi ích khi trì tụng chú Dược Sư tiếng Phạn 

https://www.youtube.com/watch?v=r8B72qAjXDw

Thơ Trần Trung Đạo

BUỔI SÁNG QUA ĐỒI

Sóng vẫn gọi từ ngày anh xa biển
Bờ cát trôi cuốn mất tuổi tên mình
Một buổi sáng qua đồi nghe nước chảy
Cội thông già quên nhớ chuyện hồi sinh

Anh đứng lặng nhìn mây bay trên núi
Thương đời mình hơn nửa kiếp đi hoang
Từ dạo ấy rừng phương đông ngút cháy
Con sông nào từng nhánh nhỏ lang thang

Anh vẫn hát bài tình ca thuở đó
Trong những chiều rất lạnh thiếu quê hương
Và những lúc một mình đêm khuya vắng
Anh ngồi mơ tha thiết buổi lên đường

Người năm trước ra đi không trở lại
Người năm xưa ở lại biết về đâu
Trên bến cũ trăng thu vàng mấy độ
Ngọn đèn đêm, tiếng nước vỗ chân cầu

Tuyết rơi rải trên đồi dăm đốm bạc
Anh nghe lòng thương tiếc tuổi hai mươi
Dẫu mai mốt có còn ngày trở lại
Tìm quê hương hay chỉ thấy quê người.

Trần Trung Đạo

Tưởng nhớ Phan Xuân Sinh

Từ trái: Trần Doãn Nho, Lương Thư Trung, Phạm Văn Nhàn, Phan Xuân Sinh (hình 2019)

Khi nghe tin Phan Xuân Sinh được khẩn cấp chuyển vào bệnh viện hôm 18/2/24, tôi bàn với bạn bè Dallas cùng đi thăm, nhưng do ai cũng bận bịu chuyện này chuyện nọ chưa thu xếp ổn thỏa, nên nấn ná. Hóa ra, trễ mất rồi. Anh đã từ giã cõi đời vào khuya 28/2/2024, sau hơn mười ngày hôn mê. 

Trước nay, tuy cách khá xa (đoạn đường Dallas-Houston mất từ 4 đến 5 tiếng lái xe), nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn tự lái xe đi thăm anh em bầu bạn và vấn an anh, người vốn đã không mấy khỏe, lại phải chăm sóc cho chị Nga, vợ anh, sức khỏe còn tệ hơn. Thế mà, trong lúc bạn bè ái ngại hỏi han, thì anh vẫn vậy, hiếm khi vắng mặt trong các cuộc gặp gỡ. Còn nhớ, bốn tháng trước đây (10/2023), chúng tôi (Nguyễn Trọng Khôi, Thận Nhiên và tôi) đi Houston, cùng vợ chồng anh tham dự buổi sinh hoạt văn nghệ bỏ túi hội ngộ với anh chị Duy Trác và các con, do Ngu Yên tổ chức tại nhà riêng. Anh ở lại đến khuya, đọc thơ góp vui và sáng hôm sau, cùng đi uống cà phê và ăn trưa với nhau. Không ngờ đó là lần gặp anh cuối cùng. Mới đây, một ngày trước khi anh vào bệnh viện, khi Hoàng Xuân Sơn ghé Houston, anh chị vẫn đến với bạn bè, cà phê cà pháo bình thường, không có dấu hiệu gì báo trước tin xấu. Thế mà, anh ra đi, đột ngột. Đúng là sinh hữu hạn, tử vô kỳ!

Chỉ biết ngậm ngùi.

Trong đời sống, Phan Xuân Sinh là một mẫu người hiếm thấy. Nhà văn Song Thao, qua bài viết tưởng nhớ Phan Xuân Sinh chỉ một ngày sau khi anh qua đời, đã gọi anh là “người của mọi người”.[1] Quả thật thế. Khi còn ở Boston, anh là một trong những thành viên tích cực của cộng đồng và là “mạnh thường quân” cho các sinh hoạt văn nghệ. Mỗi lần có bạn văn từ xa tới để thăm viếng hay ra mắt sách, thì ngoài nhà thơ Trần Trung Đạo lo điều hành tổng quát, Phan Xuân Sinh gần như bao sân những chuyện còn lại, từ đưa đón, ăn ở cho đến tiệc tùng, tham quan. Một số buổi ra mắt sách (của Trần Doãn Nho hay Hoàng Lộc chẳng hạn) được tổ chức ngay trong nhà (mà cũng là tiệm) của anh. Phụ tá đắc lực cho anh không ai khác hơn là chị Nga. Không những tiếp đón khách, anh chị còn đảm trách luôn cả việc đưa anh chị em văn nghệ sĩ chúng tôi đi các nơi tham dự các sinh hoạt văn nghệ: Canada, Washington DC, New Jersey, Philadelphia…Anh lái xe, chị lo ăn uống. Nói tóm, hễ anh em cần là anh chị sẵn sàng, hiếm khi từ chối. Giai đoạn 1995-2006, Boston xôn xao sinh hoạt văn học nghệ thuật (tôi đoán có lẽ chỉ thua… Quận Cam), một phần là nhờ anh. Giữa thập niên 2000, anh chuyển công việc làm ăn về Texas; thìếu anh, Boston dường như lắng xuống. Ngược lại, có anh, Houston khởi sắc lên, nhất là khi công việc làm ăn của anh chị xuôi chèo mát mái. Nhà anh luôn rộng mở, bất kể thịnh, suy. Bạn bè văn nghệ khắp nơi, khi đến Houston, không có chỗ nghỉ chân hay cần họp mặt hàn huyên là cứ tới nhà Phan Xuân Sinh. Chan hòa với cuộc sống như thế, không hiểu sao, vận rủi cứ liên tiếp đổ xuống gia đình anh, sau này. Chị Nga đột ngột bị đột quỵ, rồi lại tái đột quỵ, khiến công việc kinh doanh phải đình chỉ. Vốn là người bươn chải, năng động, nhưng từ đó, chị đành phải sống dựa vào anh, dù bản thân anh, vốn là thương phế binh thời VNCH, cũng mang đủ thứ bệnh của người lớn tuổi. Đã thế, tháng 9/2020, đứa con trai đầu của anh, độc thân, bị tai nạn, qua đời, khi đi phi trường đưa tiễn một người bạn. Đứa con trai còn lại, cũng độc thân và cũng bị bệnh, chỉ ở nhà phụ giúp chuyện lặt vặt. Xem như cả nhà có ba người thì đều là ba người bệnh. Bây giờ, anh ra đi thì yên phần anh, nhưng còn chị Nga và đứa con…Thiệt là “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”!

                                                                        *

            Phan Xuân Sinh mê văn chương. Anh làm thơ đăng báo từ trước 1975 và tiếp tục làm thơ khi ra hải ngoại. Nhiều bài thơ của anh với hiện thực chan hòa trong lý sự, tạo hành một phong cách riêng, đã để lại ấn tượng mạnh trong lòng độc giả. Trước sau, anh xuất bản ba tập thơ. Tôi đã có nhiều dịp “bình” thơ Phan Xuân Sinh, hoặc qua lời Tựa hoặc khi anh ra mắt tác phẩm. Nói chung, theo tôi,  “Hơi thơ của Phan Xuân Sinh lạ, ngang tàng mà u uất, cuồng ngạo mà xót xa, sâu mà chân chất. Trong cuộc rượu, đọc lên nghe nghèn nghẹn, tưng tức và cảm giác như muối xác vào lòng.” (thi tập Đứng dưới trời đổ nát). Thơ anh không cần phân tích dài hơi. Anh làm thơ y như thể đang trò chuyện với bạn bè trong cuộc nhậu. Dù đề cập đến bản thân, người tình, kẻ địch hay đồng đội, ngôn ngữ Phan Xuân Sinh thẳng băng, hiếm khi vận dụng lối nói tu từ màu mè, bóng bẩy.  Muốn hiểu thơ anh, rất giản dị, chỉ cần mang bài thơ ra đọc. Là đủ. Bàn thêm, đôi khi sẽ thấy thừa. Lại không khéo sẽ làm bay đi mất cái “chất” riêng vốn sẵn.
           trên chiếu rượu. Bạn là tay cự phách
            cỡ như ta cũng phải chầu rìa

            nhào vô. Chỉ thấy mình lãnh đạn

thối lui…đâu được. Cứ lia chia

máu Quảng Nam ta, hơi thô lỗ
vài ba chén rượu, đã cãi càng
bận tâm chi mấy lời nói sảng
rượu vô, điên tiết cứ huênh hoang
(Chén rượu ta lòng bạn hiền)

Phan Xuân Sinh thế đấy: chầu rìa, nhào vô, lia chia, cãi càng, nói sảng, điên tiết…

Thực ra, nếu lưu ý, qua thứ ngôn ngữ nghe rất “đời thường” đó, thơ anh ẩn chứa một nét khác: tính nghịch lý. Chẳng hạn, nghịch lý tiền tuyến/hậu phương:

ta vẫn nằm trên đồi gió thổi
chim hót ban ngày, pháo dội ban đêm
em cứ chạy theo từng mốt mới
còn ta, uống rượu để tìm quên
(Nghe chim hót trên đồi 55)

Chẳng hạn, nghịch lý quê hương/đảng:

trên quê hương tôi
lòng người đổ vỡ, tan hoang
khi những người thắng trận

(…)
thay vì xây dựng quê hương
lại xây dựng đảng
thay vì vá lại những vết thương
lại vạch thêm những vết nứt
những đứa bé đến trường
phải thông qua lý lịch
bài học đầu đời không cần đạo đức
phải tỏ tấm lòng
nhiệt thành cách mạng
những học vị vứt vào sọt rác
lao động là vinh quang
những thằng vô học đứng trên bục giảng
rêu rao lý thuyết điên cuồng
như vẹt
không nuôi được nhân dân
nhưng làm giàu bè đảng
quê hương tôi chìm trong uất nghẹn
(Bom nổ giữa tim người)

Hay nghịch lý bộ đội/lính:

sau vài ly, ông nhìn tôi từ đầu tới chân
anh là ai? thấy quen quen như gần gũi
tôi trả lời ông, xin thưa, tôi là thằng “lính ngụy”
xưa kia… có lần tôi nhắm bắn trật ông

ông cười ha hả hèn chi thấy quen
mình là lính chuyên nghiệp,
mà “dở ẹt’ nghề xạ thủ
bữa nhậu nầy tràn ly vẫn chưa đủ
tôi với ông đều là thứ lính dân chơi
(Người lính già, bên kia)

            Bài thơ này còn hàm chứa một nghịch lý khác: bắn trật/bắn trúng. “Bắn trật” ở đây nói lên một yếu tố rất nhân văn của người lính Phan Xuân Sinh: không muốn giết người. Vậy ai là kẻ “bắn trúng”. Dạ thưa, đây:

cuộc chiến qua, như một tấm tuồng đời
            thấy chúng nó bắn đâu trúng đó
            bắn tan xác nhân dân,
           bắn tanh bành đất nước
           vẫn chưa thỏa được lòng tham

Không những chỉ bắn trúng một cách chung chung, mà “bắn đâu trúng đó”. “Chúng nó” chẳng ai khác hơn đám quan chức nhà nước hiện nay, tạo nên một vấn nạn nhức nhối của đất nước gần như không tìm ra lối thoát. Rõ là Phan Xuân Sinh nhạy cảm với cái nghịch lý. Và tìm cách biến nó thành thơ.

Đọc bài thơ trên, không thể không nhớ đến “định nghĩa” về chiến tranh của nhà thơ Paul Valéry (Pháp): “Chiến tranh là cuộc tàn sát lẫn nhau giữa những người không quen biết nhau, để phục vụ cho những người quen biết nhau nhưng không tàn sát lẫn nhau” (La guerre est un massacre de gens qui ne se connaissent pas au profit de gens qui se connaissent bien mais ne se massacrent pas).

                                          Phan Xuân Sinh tiếp bạn văn tại nhà.

      Từ trái: Phan Xuân Sinh, Phạm Văn Nhàn (Houston), Uyên Hà (VN), Bùi Huy, Trần Doãn Nho (Dallas), chị TDNho, chị PXSinh. (Hình: TDN, Houston 2018)

                                                                        *

Ngoài thơ, Phan Xuân Sinh còn viết văn. “Bơi Trên Dòng Nước Ngược”, tập văn xuôi đầu tiên của anh, là một tạp bút. Trong lời mở đầu, anh thành thật cho biết: “Đây là một tạp văn gom góp lại những mẫu chuyện nho nhỏ của tôi được đăng rải rác trên các báo và tạp chí tại hải ngoại. Vì sợ thất lạc và để dễ dàng gìn giữ nên tôi quyết định in ra để bạn bè, những người thân thuộc, những anh chị em quen biết, như một món quà giữ làm kỷ niệm, chứ không có hoài bão lớn lao nào khác”. Trong đoạn cuối, anh cũng thành thật viết “Trong tạp văn này tôi gom đủ mọi thứ, buồn vui lẫn lộn, hư thực xen lẫn nhau. Để người đọc mua vui trong chốc lát…”

Như thơ, văn Phan Xuân Sinh bộc trực, không quanh co, úp mở. Tấm lòng anh tỏ lộ trên từng câu,  chữ, dù trong tùy bút, ký, tự truyện hay truyện ngắn. Anh gói mọi biến cố và bi kịch cuộc đời trong tình người. Vì thế, truyện của anh – tuy không ít kịch tính – lại có những kết thúc, lúc nào cũng làm…nhẹ lòng người. Thú vị nhất là theo anh xuôi về những kỷ niệm thời thơ trẻ với những tinh nghịch thuở học trò, với mối tình đầu và với vùng đất quê hương anh. Vui, buồn, tếu, cay đắng, khổ đau, hạnh phúc…. Đủ cả. Quê hương Quảng Nam xấu, tốt chi cũng đều bị anh lột trần. “Con gái Bắc tế nhị, khéo léo bao nhiêu thì con trai Quảng Nam cộc cằn, độc đoán bấy nhiêu, họ kín đáo thầm lặng bao nhiêu thì mình huỵch toẹt, ồn ào bấy nhiêu. Ôi cái xứ mình tạo ra những con người như thế, quá thẳng thắn, quá cứng rắn, mà cái gì quá thì nó cũng căng dễ đứt, không hay. Vừa phải chừng mực thì tốt hơn. Thế nhưng người Quảng Nam thì không chịu thái độ không dứt khoát này, chấp nhận tràn đầy chứ không thể lưng chừng.

Cảm động nhất, có “Con tàu chỉ có một người”, truyện ngắn. Một tù nhân cải tạo bị vợ chê, không hề được thăm nuôi, bỗng nhiên nhận được một gói quà gửi qua đường bưu điện. Tưởng vợ mình hồi tâm, té ra không: vợ một người khác gửi cho anh. Đọc thư kèm theo, mới hay, chị vợ này bé cái lầm: do trùng họ tên lại trùng cả đơn vị trong quân đội, chị tưởng anh là người chồng – vốn bị mất tích từ lâu trong chiến tranh – hãy còn sống. Nhận quà bất ngờ, lòng không yên, anh viết thư ám chỉ xa gần rằng chị đã gửi nhầm. Tưởng thế là yên, không ngờ, quà và thư vẫn cứ gửi vào. Đã thế, còn  được thăm nuôi. Tưởng người thân, hóa ra, lại là người phụ nữ không quen biết nọ. Anh ngỡ ngàng, nhưng chị ta ra dấu cho anh im lặng, làm như là vợ đi thăm chồng. Chị nói, nhận thư anh, chị biết mình lầm lẫn, nhưng vẫn cứ gửi, vì thương cho hoàn cảnh một người tù bị vợ bỏ rơi. Biết chắc chồng mình đã chết, chị tuyệt vọng nhưng bù lại, cảm thấy vui vì đã làm được một việc đầy ý nghĩa: mang chút tình sưởi ấm cho người bất hạnh. Kết truyện, diễn tả lại cảm xúc của người tù trước tình cảnh éo le này, Phan Xuân Sinh viết:

“Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài Gòn. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ còn một mình chị thức, nhìn ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng (…) Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một mình chị. Còn tất cả đều nhạt nhòa. Một mình chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của môt đời người. Nhưng thật quý báu cho một tấm lòng. Anh cảm thấy chị và con tàu đang lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo. 

Bốn năm sau, anh cho in “Sống với thời quá vãng”, cũng là một tạp bút. Trong lời đề tựa cho tập này, Trần Doãn Nho viết:

“…Qua những số phận rất riêng, thực ra, Phan Xuân Sinh muốn nói lên một cái rất chung: vết thương chia cắt dân tộc qua những năm dài chiến tranh và hơn ba thập niên không-chiến-tranh mà chưa có dấu hiệu gì đã được chữa lành. Bằng những ghi nhận sắc nét và cụ thể từ hiện thực, qua một chuyến trở về với vô vàn cảm xúc, Phan Xuân Sinh đã cung cấp cho người đọc những hình ảnh và những sự kiện rất thấm thía. Đây là một tác phẩm văn chương, cố nhiên. Nhưng mọi cái toát ra từ đây không chỉ là văn chương. Mà là một tấm lòng. Một bày tỏ. Một mối quan hoài. Và cuối cùng, một niềm hy vọng…”

Nội dung các câu chuyện khác nhau chỗ này chỗ kia, nhưng ý nghĩa chính của chúng gói gọn trong hai chữ: trở về. Trong “Ánh sáng cuối đường hầm”, người vợ từ nước ngoài “trở về” nước tìm lại chồng con sau 15 năm cắt đứt mọi liên lạc chỉ vì tủi hổ đã bị hải tặc hiếp trên đường vượt biển. Trong “Khi con đường không lối thoát”, người con trở cũng từ nước ngoài “trở về” tìm gặp lại người mẹ đã bỏ chồng tù để lấy người khác. Cũng là bỏ, nhưng một người thì vì mặc cảm tội lỗi, còn một người thì phản bội. Hoàn cảnh khác nhau đưa đến hậu quả khác nhau. Người vợ này tìm thấy “ánh sáng cuối đường hầm”, gặp lại được chồng con, được tha thứ; còn người vợ kia thì “không lối thoát” vì nhận ra quyết định của mình trong quá khứ là không thể sửa chữa được.

Và chính Phan Xuân Sinh cũng “trở về”. Bút ký dài ghi lại chuyến trở về này là một chuỗi những sự kiện và gặp gỡ với nhiều tình huống và cảm xúc phức tạp. Cũng như hàng triệu người Việt Nam khác, anh rời bỏ quê hương; rời bỏ nhưng khát khao trở về; trở về thì hoàn toàn bị hụt hẫng: quê hương không nhìn nhận đứa con xa xứ. Cảm giác bị xem như một người lạ ngay chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình là một kinh nghiệm mới mẻ đầy chua xót. Một trong những kinh nghiệm đó là xuất bản sách. Anh kể:

Tôi về Việt Nam trong chuyến nầy, nhà xuất bản Văn Nghệ có in cho tôi một tập thơ, theo lời rủ rê của vài người bạn thân, tôi in một tập ở đây để biếu anh em, vì in ở Mỹ mang về khó quá. Theo dự trù, tập thơ sẽ in xong trước Tết, thế nhưng vào giờ chót không kịp. Nhà in hẹn mồng 8 Tết sẽ giao. Tập thơ mang tên: “Khi Tình Đang Ru Đời”. Đúng ra tập thơ 225 trang, tôi layout sẵn. Thế nhưng khi nhận tôi nhìn thấy thay đổi tất cả, kể cả layout. Anh Tần Hoài Dạ Vũ (một nhà thơ trước 75) báo cho tôi biết là tập thơ bị kiểm duyệt 8 bài và 5 bài viết về tôi của Nguyễn Đình Toàn, Luân Hoán, Nguyễn Mạnh Trinh, Vương Trùng Dương và Lương Thư Trung bi cắt. Tập thơ chỉ còn lại 115 trang. Lý do vì sao bị kiểm duyệt? Tôi không được nghe chính thức giới có thẩm quyền nói ra, chỉ nghe qua người khác nói lại là những bài thơ bị kiểm duyệt có chút ít đụng chạm. Những tác giả viết về tôi, không phải là người trong nước viết nên bị loại. Đơn giản như vậy. Khi in tập thơ nầy, chính tôi đã tự kiểm duyệt, chỉ lựa ra những bài thơ vô thưởng vô phạt, thế mà cũng chưa vừa lòng người kiểm duyệt. Tôi là người viết ở hải ngoại, người đọc tác phẩm tôi là người đang sống tại hải ngoại. Có ai trong nước đọc được của tôi đâu để viết về tôi. Một sự đòi hỏi thật vô lý, tréo cẳng ngỗng. Thế nhưng người kiểm duyệt hình như họ không cần phải biết những điều như vậy. Họ chỉ là những bộ máy nghiền nát theo một chính sách chung. Thật khó lòng cho những ai muốn về nước để in ấn, khi bộ máy nghiền nầy chưa được tháo gỡ.

Thật thấm thía nỗi đời.

            Chào vĩnh biệt Phan Xuân Sinh!

                                                            *

Phan Xuân Sinh sinh năm 1948 tại Nại Hiên Tây – Đà Nẵng. Định cư tại Hoa Kỳ 01-6-1990. Có bài đăng trên các tạp chí: Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Làng Văn, Phố Văn, Chủ Đề và các trang mạng Talawas, Da Màu v.v.. Các tác phẩm đã xuất bản: Chén Rượu Mời Người (tập thơ, Phan Xuân Sinh-Dư Mỹ/1996), Đứng Dưới Trời Đổ Nát (tập thơ/2000), Bơi Trên Dòng Nước Ngược (tạp bút/2004), Khi Tình Đang Ru Đời (thơ/2008), Sống Với Thời Quá Vãng (tạp bút/2009).

Trần Doãn Nho (3/2024)


[1] Song Thao, Phan Xuân Sinh, Người Của Mọi Người – Văn Học Nghệ Thuật – Việt Báo Foundation – A Nonprofit 501 (c)(3) Organization (vietbao.com)

Đinh Quang Anh Thái | Thơ Phan Xuân Sinh:        

https://www.youtube.com/watch?v=H5veqJcekEk